Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, triết học của Chủ nghĩa Mác
– Lênin chỉra rằng: Chủnghĩa Tưbản là hình thái kinh tế- xã
hội xuất hiện sau chế độphong kiến, trong đó các tưliệu sản
xuất do giai cấp tưsản chiếm hữu và dùng làm phương tiện để
bóc lột làm thuê của người lao động.
Đại chiến thếgiới Thứnhất và Đại chiến thếgiới Thứhai
do Chủnghĩa Tưbản gây ra đểxâm chiếm thuộc địa, tranh
giành thịtrường không ngoài mục đích bóc lột được nhiều
hơn. Sựtàn khốc của hai cuộc đại chiến là không thểchối cãi,
khiến nhân loại ngày càng cảnh giác với Chủnghĩa tưbản. Do
vậy, nhiều nhà kinh tếhọc tưbản đã viết nhiều luận thuyết
biện minh cho Chủnghĩa Tưbản và cho rằng bản chất của
Chủnghĩa Tưbản đã thay đổi.
Cuốn Sựtuyệt chủng của con người kinh tếcủa Michael
Shermer là cuốn sách được bán rất chạy trên thếgiới ngay từ
khi mới xuất bản. Tác giả, với những ví dụ được chọn lọc, dẫn
dắt người đọc từlòng trắc ẩn (phi giai cấp), tới sựtuyệt chủng
của con người kinh tế đặt mục đích kinh tếlên trên hết, cuối
cùng là sựtựdo lựa chọn (có đạo đức?!)… trong nhu cầu đời
SỰTU YỆT C HỦNG CỦA C ON NGƯỜI KI N H TẾ
−6 −
sống của cá nhân, chính là lời cổsúy khôn khéo và nồng nhiệt
cho thịtrường tựdo thuần túy – hay cụthểhơn là lời biện
minh Chủnghĩa Tưbản đã khác trước và sẽlà tương lai của
nhân loại.
28 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự tuyệt chủng của con người kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
− 1 −
SỰ T U YỆT C HỦN G CỦA
C O N N GƯỜ I K I N H TẾ
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 2 −
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả
để sách ngày càng hoàn thiện hơn.
Góp ý về sách, liên hệ về bản thảo và bản dịch: publication@alphabooks.vn
Liên hệ về dịch vụ bản quyền: copyright@alphabooks.vn
THE MIND OF THE MARKET
Copyright © 2008 by Michael Shermer. All rights reserved.
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜI KINH TẾ
Bản quyền tiếng Việt © 2010 Công ty Sách Alpha
Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép
hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào
mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của Công ty Sách Alpha.
Bìa: Nguyễn Đức Vũ
Biên tập viên Alpha Books: Đào Quế Anh
− 3 −
M I C H A E L S H E R M E R
SỰ TUYỆT CHỦNG
CỦA CON NGƯỜ I KINH TẾ
Khương Duy dịch
NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 4 −
Đàn nhím quây quần bên nhau để sưởi ấm trong mùa đông
giá rét; nhưng khi những chiếc gai trên người chúng đâm
vào nhau, chúng buộc phải tản ra... Sau nhiều lần sát lại rồi
tản ra, chúng buộc phải tản ra... Tương tự, nhu cầu hình
thành xã hội cũng đưa con người đến gần nhau hơn nhưng
rồi bản tính gai góc và khó ưa lại đẩy họ ra xa nhau. Cuối
cùng con người cũng hiểu cần giữ một khoảng cách vừa
phải mới mong giao tiếp được với nhau, khoảng cách đó
cũng chính là chuẩn mực của phép lịch sự và hành xử.
A R T H U R S C H O P E N H A U E R ,
Tặng phẩm và cặn bã , II, 31, 1851
Mục lục
− 5 −
Lời Nhà xuất bản
Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, triết học của Chủ nghĩa Mác
– Lênin chỉ ra rằng: Chủ nghĩa Tư bản là hình thái kinh tế - xã
hội xuất hiện sau chế độ phong kiến, trong đó các tư liệu sản
xuất do giai cấp tư sản chiếm hữu và dùng làm phương tiện để
bóc lột làm thuê của người lao động.
Đại chiến thế giới Thứ nhất và Đại chiến thế giới Thứ hai
do Chủ nghĩa Tư bản gây ra để xâm chiếm thuộc địa, tranh
giành thị trường không ngoài mục đích bóc lột được nhiều
hơn. Sự tàn khốc của hai cuộc đại chiến là không thể chối cãi,
khiến nhân loại ngày càng cảnh giác với Chủ nghĩa tư bản. Do
vậy, nhiều nhà kinh tế học tư bản đã viết nhiều luận thuyết
biện minh cho Chủ nghĩa Tư bản và cho rằng bản chất của
Chủ nghĩa Tư bản đã thay đổi.
Cuốn Sự tuyệt chủng của con người kinh tế của Michael
Shermer là cuốn sách được bán rất chạy trên thế giới ngay từ
khi mới xuất bản. Tác giả, với những ví dụ được chọn lọc, dẫn
dắt người đọc từ lòng trắc ẩn (phi giai cấp), tới sự tuyệt chủng
của con người kinh tế đặt mục đích kinh tế lên trên hết, cuối
cùng là sự tự do lựa chọn (có đạo đức?!)… trong nhu cầu đời
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 6 −
sống của cá nhân, chính là lời cổ súy khôn khéo và nồng nhiệt
cho thị trường tự do thuần túy – hay cụ thể hơn là lời biện
minh Chủ nghĩa Tư bản đã khác trước và sẽ là tương lai của
nhân loại.
Trước thời buổi hội nhập kinh tế toàn cầu, nước ta kiên
định xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đây chính là một cuốn sách cần đọc để hoà nhập
mà không hòa tan.
Cuối cùng, xin được trích một câu trong Nghị quyết của Bộ
Chính trị ĐCSVN về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay
(Số 01/NQ-TN 21/3/92): “Đối với các học thuyết khác –
ngoài Chủ nghĩa Mác – Lênin, về xã hội, cần được nghiên
cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng”.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
N H À X U Ấ T B Ả N T H Ờ I ĐẠ I
Mục lục
− 7 −
MỤC LỤC
Lời giới thiệu....................... Error! Bookmark not defined.
Dẫn nhập: Kinh tế học cho mọi người .................................9
1 . Bước nhảy vọt ......................................................29
2 . Trực giác kinh tế trong ta ........................................49
3 . Chủ nghĩa tư bản nhìn từ dưới lên .......................65
4 . Gấu trúc, sản phẩm và con người .........................96
5 . Học cách chăm nom đồng tiền ............................128
6 . Sự tuyệt chủng của Con người kinh tế ................173
7 . Giá trị của đạo đức ..............................................205
8 . Vì sao tiền không mua được hạnh phúc?............242
9 . Lòng tin và minh xác độ tin cậy ...........................286
10 . Khoa học về những quy tắc tốt ........................322
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 8 −
11 . Không làm điều xấu..........................................342
12 . Tự do lựa chọn .................................................378
Lời kết: Mở cửa thế giới...................................................407
Chỉ mục ...........................................................................429
Dẫn nhập
− 9 −
Dẫn nhập
KINH TẾ HO ̣C CHO
MO ̣I NGƯỜI
húc âm thánh Matthew, trang 25, dòng 14-29, thuật
lại lời dạy của Jesus Chúa cứu thế về tài năng như
sau: “Vì phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.” Nếu
không xét đến ngữ cảnh, câu nói trên không thể hiện chút trí
tuệ nào của một nhà tiên tri vĩ đại, người từng tuyên bố rằng
lòng nhân từ sẽ ngự trị thế giới; song nếu xét trong ngữ cảnh
phù hợp, có thể hiểu Jesus cho rằng nếu biết cách đầu tư tiền
của (tính bằng đơn vị “talents” 1) thì con người sẽ trở nên giàu
có hơn. Một người đầy tớ được trao cho năm talents nếu biết
1 “Talent” vừa mang nghĩa tài năng, vừa là một đơn vị tiền tệ và trọng lượng cổ
(ta-lăng).
P
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 10 −
cách đầu tư sẽ đem về cho chủ mười talents. Một người đầy tớ
được trao cho hai talents nếu biết cách đầu tư sẽ đem về cho
chủ bốn talents. Nhưng nếu được trao cho một talent và người
hầu đó đem cất kỹ vào hộp thì cuối cùng cũng chỉ có thể trả lại
một talent duy nhất cho chủ. Khi đó, ông chủ sẽ yêu cầu người
đầy tớ ngại rủi ro này trao một talent đó cho người biết cách
biến năm talents thành mười talents – nghĩa là người kiếm
được nhiều tiền nhất lại được ban thêm của cải. Vậy là kẻ giàu
càng giàu thêm.
Hẳn lời dạy của Chúa Jesus thâm sâu hơn câu chuyện
mang tính kinh tế về lựa chọn phương cách đầu tư đúng đắn,
song tôi muốn xem lời dạy này như một ngụ ngôn về tâm hồn
của thị trường. Vào những năm 1960, nhà xã hội học Robert
K. Merton đã tiến hành một nghiên cứu quy mô lớn về cách
thức các ý tưởng khoa học được khám phá, công nhận trong
một thị trường ý tưởng – ông coi khoa học như một thị
trường. Merton nhận thấy các khoa học gia lỗi lạc thường có
uy tín lớn hơn mức xứng đáng đơn giản bởi họ là những tên
tuổi lớn, trong khi các cộng sự giúp việc và các nghiên cứu
sinh – những người đảm nhận phần lớn công việc – lại chẳng
hề được biết đến. Một hiệu ứng phổ biến tương tự cho thấy
những ý tưởng sáng tạo và những câu danh ngôn thường được
nâng tầm và đem lại sự vẻ vang cho cá nhân nổi tiếng nhất
liên quan đến chúng.
Merton gọi đây là Hiện tượng Matthew. Các chuyên gia
về thị trường xem đây là Lợi thế tích lũy. Trong ngữ cảnh
kinh tế rộng hơn, tôi sẽ đề cập đến nó như Hiệu ứng bán
chạy nhất. Một sản phẩm bán chạy khi vừa được tung ra thị
Dẫn nhập
− 11 −
trường sẽ khiến những người khác tin đây là một sản phẩm
tốt và mong muốn sở hữu nó, điều này sẽ kéo thêm nhiều
người đến mua, và thông điệp cứ thế lan tỏa đến vô số khách
hàng khác. Sản phẩm này lập tức trở thành món hàng bán
chạy nhất. Trên thương trường ai cũng biết hiệu ứng này, thế
nên nhiều tác giả và nhà xuất bản quyết tâm đặt bằng được
cuốn sách của họ vào danh mục sách bán chạy nhất của New
York Times. Khi sách của bạn nằm trong danh mục này, các
hiệu sách sẽ lập tức xếp nó vào giá sách bán chạy nhất (đôi
khi còn ghi rõ “Danh mục sách bán chạy nhất theo xếp hạng
của New York Times”).
Cuốn sách sẽ được đặt ngay bên ngoài, các ẩn bản xếp ngay
ngắn như một khối gỗ. Điều này giúp các khách hàng tiềm
năng vừa bước vào hiệu sách đã nhận ra đây là một cuốn đáng
đọc. Lượng mua tăng lên khiến cuốn sách lập tức được các
biên tập viên mục New York Times Book Review nâng hạng
trên danh mục sách bán chạy, điều này như một thông điệp
tích cực gửi đến độc giả khiến số ấn bản bán được ngày càng
tăng thêm, cuốn sách trụ hạng lâu hơn, doanh số bán tiếp tục
tăng cao hơn nữa. Tất cả xoáy quanh như một vòng tròn, và
các tác giả giàu nhất lại càng giàu thêm.
Để lượng hóa Hiệu ứng bán chạy nhất, nhà xã hội học
Duncan Watts, công tác tại Đại học Columbia, cùng với hai
cộng sự Matthew Salganik và Petter Dodds đã tiến hành một
thí nghiệm trong đó 14 nghìn người đăng ký làm thành viên
một trang web, nơi họ có thể nghe, xếp hạng và tải về các ca
khúc do các ban nhạc vô danh trình bày. Một nhóm thành
viên được cho biết tên của các ca khúc và ban nhạc, trong khi
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 12 −
nhóm thứ hai chỉ được biết số lần mỗi bài hát được tải về. Các
nhà nghiên cứu đã gọi đây là điều kiện “ảnh hưởng xã hội”. Họ
muốn biết thông tin về số người tải một ca khúc về có ảnh
hưởng đến quyết định tải hoặc không tải nó về của các chủ thể
khác không. Đúng như dự đoán, số liệu biểu thị lượng tải về
đã ảnh hưởng đến những thành viên thuộc nhóm chịu “ảnh
hưởng xã hội”: những bài hát có số người tải về nhiều hơn tiếp
tục được các thành viên mới tải về nhiều hơn, trong khi lựa
chọn của nhóm biết tên bài hát và ban nhạc lại cho kết quả cực
kỳ khác biệt. Điều này không có nghĩa là chất lượng của một
cuốn sách, một ca khúc hay bất kỳ sản phẩm nào khác không
có ảnh hưởng tới quyết định của người mua. Tất nhiên, nó có
ảnh hưởng và ảnh hưởng đó có thể lượng hóa được. Nhưng
hóa ra khi người tiêu dùng đưa ra lựa chọn chủ quan dựa trên
đánh giá mang tính tương đối của các khách hàng khác thì
ảnh hưởng của sự xếp loại khách quan về chất lượng sản
phẩm thường trở nên mờ nhạt.
Những thị trường nơi việc buôn bán diễn ra dựa trên
những bảng xếp hạng, xếp loại và danh mục hàng bán chạy
nhất dường như vận hành theo ý muốn của riêng nó, giống
như một cơ thể chung. Thực chất, đây mới chỉ là một trong
những hiệu ứng sẽ được đề cập trong cuốn sách này, minh
chứng cho mức độ ảnh hưởng của tâm hồn tới thị trường, và
rộng hơn nữa là sự tồn tại tinh thần riêng của thị trường. Hãy
cùng suy ngẫm một câu chuyện kinh tế khác qua bài học về sự
tiến hóa có liên quan đến Hiệu ứng bán chạy nhất.
Ø Ø Ø
Dẫn nhập
− 13 −
Hãy tưởng tượng bạn là một chủ nhà băng sở hữu một
lượng tiền hữu hạn có thể cho vay. Nếu bạn cho những khách
hàng có mức độ rủi ro cao vay, thực sự bạn đang chơi một
canh bạc liều lĩnh vì con nợ của bạn có thể không trả được nợ
và tài sản của bạn cũng tiêu tán. Điều này tạo ra một nghịch
lý: Những người cần tiền chính là những người có mức độ rủi
ro cao nhất và vì thế khó lòng vay được tiền, trong khi đó
những người ít cần tiền nhất lại có mức độ rủi ro thấp nhất –
và thế là người giàu càng giàu thêm. Hai nhà tâm lý học tiến
hoa John Tooby và Leda Cosmides đã gọi đây là Nghịch lý chủ
nhà băng, và họ đã áp dụng nó vào một vấn đề sâu sắc hơn:
chúng ta nên kết bạn với ai? Họ cho rằng Nghịch lý chủ nhà
băng “cũng tương tự như một vấn đề nghiêm trọng mà tổ tiên
chúng ta gặp phải trong quá trình thích nghi với cuộc sống:
lúc một người nguyên thủy cần được giúp đỡ nhất cũng là lúc
người đó có mức độ rủi ro cao, và vì thế không còn đủ hấp
dẫn để được trợ giúp”.
Nếu xem cuộc sống giống như một nền kinh tế và những
nguồn lực là bất cứ thứ gì chúng ta sẵn có để giúp đỡ người
khác – đặc biệt bao gồm tình bạn – theo logic của Nghịch lý
chủ nhà băng, sẽ có những lựa chọn rất khó khăn khi đánh giá
mức độ tin cậy của những người chúng ta gặp. Theo thuyết
tiến hóa, lòng vị tha là vấn đề lớn hơn được đặt ra ở đây: tại
sao tôi phải hy sinh gene của tôi vì gene của người khác? Hoặc
mang tính kỹ thuật hơn, vị tha là hành động làm giảm khả
năng sinh tồn của tôi đồng thời làm tăng khả năng sinh tồn
của người khác.
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 14 −
Các lý thuyết chuẩn mực cho rằng có hai con đường tiến
hóa dẫn tới sự vị tha: lựa chọn theo huyết thống (một giọt
máu đào hơn ao nước lã) và vị tha tương hỗ (có đi có lại).
Giúp đỡ những người gần gũi thân thiết hoặc những người sẽ
đền đáp lòng vị tha của tôi nghĩa là tôi đang giúp chính mình.
Vì thế, sự lựa chọn sẽ hướng đến những người có xu hướng vị
tha ở mức độ nào đó. Bị giới hạn bởi các nguồn lực, chúng ta
không thể giúp đỡ tất cả mà phải đánh giá mức độ rủi ro của
mỗi người, và sẽ có một số người ít rủi ro hơn những người
khác. Một lần nữa Nghịch lý chủ nhà băng lại xảy ra: Những
người nguy khốn nhất lại ít có cơ may được giúp đỡ nhất, và
thế là người giàu càng giàu thêm. Nhưng không phải khi nào
cũng vậy, có những người bạn lúc sóng êm biển lặng giả vờ tỏ
ra vị tha, nhưng khi trời nổi giông bão thì họ chẳng buồn cứu
giúp chúng ta. Ngược lại, những người bạn thực sự là những
người luôn bảo vệ lợi ích của chúng ta mà không hề đòi hỏi sự
đền đáp. “Những bạn bè xấu thường đeo mặt nạ trung thành”,
Tooby và Cosmides phân tích, “ Nếu bạn sống ở thời nguyên
thủy và không có ai quan tâm sâu sắc đến lợi ích của bạn, khi
đó bạn rất dễ bị tổn thương trước các sự kiện bất ngờ – trở
thành con tin của số mệnh.” Môi trường sống càng tồi tệ, càng
cần thiết phải có những người bạn thực sự, và trong quá khứ,
môi trường sống của con người không hề giống một chuyến dã
ngoại êm đềm.
Tiến hóa là một quá trình chọn lọc theo khả năng thích
nghi và hành xử theo Nghịch lý chủ nhà băng, trong đó chúng
ta phải (1) cố gắng để được những người xung quanh ghi nhận
sự thành thực và đáng tin cậy, (2) trau dồi những thuộc tính
Dẫn nhập
− 15 −
được ưa chuộng nhất trong cộng đồng, (3) tham gia những
hoạt động cộng đồng nhằm nhận diện và củng cố những thuộc
tính thiên về xã hội, (4) tránh những hoạt động cộng đồng gây
mất uy tín và để lại tai tiếng, (5) chú ý đến những đặc điểm
đáng tin cậy ở người khác và (6) rèn khả năng phân biệt bạn
bè chân thành và bạn bè hời hợt. Vì thế, Tooby và Cosmides
kết luận, Nghịch lý chủ nhà băng, giải thích cho vấn đề thuộc
lĩnh vực tâm lý học tiến hóa: “Nếu bạn có tầm quan trọng đặc
biệt hoặc duy nhất với ai đó – dù vì bất cứ lý do nào – người
đó cũng sẽ có sự quan tâm trên mức thông thường đối với sự
tồn tại của bạn khi gặp khó khăn. Sự quan tâm ấy khiến người
đó trở nên quan trọng với bạn. Lý do ai đó “đầu tư” vào bạn
chính là vì bạn cũng “đầu tư” vào người đó. Hơn nữa, khi nhận
ra điều này ở mức độ nào đó, có thể sự quan tâm ban đầu họ
dành cho bạn sẽ gia tăng.” Với sự gia tăng này, người nghèo có
thể trở nên giàu có nhờ sự phát triển nền tảng tình bạn.
Ø Ø Ø
Năm 1859, Charles Darwin xuất bản cuốn Nguồn gốc các
loài. Cuốn sách gây tranh cãi đến mức vào năm 1861, Hiệp hội
vì tiến bộ khoa học Anh phải dành một phần đặc biệt trong
cuộc họp thường niên thảo luận về nó. Người ta trao đổi, phân
tích tốt xấu, và có ý kiến gay gắt chỉ trích cuốn sách của
Darwin quá nhiều lý thuyết và ông chỉ nên “đưa ra dẫn chứng
và để chúng yên”. Nhà kinh tế chính trị và hoạt động xã hội
Henry Fawcett - người bạn đồng thời là đồng sự của Darwin –
đã viết thư cho ông sau cuộc họp, miêu tả thái độ tiếp nhận
của giới khoa học với học thuyết này (Darwin thường không
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 16 −
tham dự những sự kiện như vậy vì lý do sức khỏe yếu và bận
bịu gia đình). Darwin đã trả lời Fawcett, giải thích mối quan
hệ khăng khít giữa lý thuyết và thực tiễn:
Khoảng ba mươi năm trước, có nhiều tranh luận cho
rằng các nhà địa chất chỉ được phép quan sát chứ không
phát triển thành lý thuyết, và tôi nhớ rõ có người đã nói cứ
đà này thì con người chỉ có cách xuống mồ đếm cát sỏi và mô
tả màu sắc của chúng. Thật kỳ lạ nếu ai đó không thấy bất
cứ quan sát nào cũng phải nhằm ủng hộ hoặc phản biện một
quan điểm nào đó, nếu muốn nó có ích.
Tôi đã dùng câu nói này để minh họa trong bài báo đầu tiên
viết cho cho tạp chí Scientific American, trong đó tôi phát
triển nó thành một nguyên tắc mang tên Châm ngôn của
Darwin, thể hiện ở ý sau cùng: bất cứ quan sát nào cũng phải
nhằm ủng hộ hoặc phản biện một quan điểm nào đó, nếu
muốn nó có ích.
Châm ngôn của Darwin trở thành triết lý khoa học của
cuốn sách này: nếu muốn các quan sát trở nên hữu ích, chúng
phải được kiểm chứng trước một quan điểm nào đó – luận đề,
mô hình, giả thuyết hay kiểu mẫu. Các sự kiện không thể tự
phát ngôn nên chúng cần được giải mã qua lăng kính ý tưởng,
vì nhận thức dựa trên quan niệm.
Khoa học là sự kết hợp tuyệt vời giữa số liệu và lý thuyết –
giữa nhận thức và quan niệm – chúng cùng nhau tạo thành
nền tảng vững chắc của khoa học, công cụ mạnh nhất con
người tạo ra nhằm tìm hiểu sự vận hành của thế giới. Nếu
không còn tách rời lý thuyết, quan niệm với số liệu, nhận thức
Dẫn nhập
− 17 −
chúng ta sẽ đạt đến cách nhìn nhận khách quan của
Archimede – nhìn bằng đôi mắt của Chúa – về bản thân và
thế giới.
Trong cuốn sách này tôi sẽ phản bác một quan điểm đáng
mỉa mai cho rằng Darwin và học thuyết của ông không có chỗ
đứng trong lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt khi nghiên cứu
về hành vi xã hội và kinh tế của con người. Trong khi nhiều
nhà khoa học kịch liệt phản đối việc đưa Thuyết sáng tạo hay
Thuyết thiết kế thông minh2 vào giảng dạy trong giờ Sinh học
tại các trường công, đồng thời điên đầu vì tình trạng giáo dục
khoa học thảm hại và số lượng ít ỏi những người chấp nhận
học thuyết của Darwin (chưa đầy một nửa dân số Mỹ tin vào
sự tiến hóa của con người), hầu hết các nhà khoa học khác –
chủ yếu là các nhà khoa học xã hội – đã lên án bằng tất cảm
xúc mãnh liệt dành cho Đấng sáng tạo nhằm chống lại nỗ lực
đưa tư tưởng tiến hóa vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội và tâm
lý. Giờ đây chúng ta có thể hiểu nguyên nhân của sự phản đối
này – chính sự cân bằng trong thuyết tiến hóa và các quan
điểm cực đoan về di truyền đã dẫn đến những cuộc thanh sát
người thiểu năng trí tuệ tại Mỹ, và khiến Đức Quốc xã tạo ra
Thuyết ưu sinh3 - nguồn gốc của sự thảm sát người Do Thái.
2 Thuyết sáng tạo (Creationism) là học thuyết chủ đạo của Thiên chúa giáo, cho
rằng Thiên chúa tạo ra thế giới. Thuyết thiết kế thông minh (Intelligent Design)
được đưa ra những năm 1980 tiếp tục khẳng định điều này. Thiên chúa giáo
kịch liệt phản đối Thuyết tiến hóa (Evolution Theory) của Darwin và ở nhiều
nơi, học thuyết này vẫn bị cấm giảng dạy theo yêu cầu của Nhà thờ.
3 Thuyết ưu sinh (Eugenics) phát sinh từ quan điểm cực đoan về di truyền. Hitler
từng tuyên bố nhiều lần: “Chúng ta phải tạo ra một giai cấp ưu việt nhất, có khả
năng thống trị trong nhiều thế kỷ. Đội quân của chúng ta phải được lựa chọn trên
SỰ TUYỆT CHỦNG CỦA CON NGƯỜ I K INH TẾ
− 18 −
Do đó, các nhà khoa học xã hội sau Thế chiến II đã phản đối
mọi ý tưởng dùng quan điểm tiến hóa để nghiên cứu hành vi
con người, và chỉ tập trung đưa ra những giải thích thiên về
văn hóa-xã hội.
Tôi cũng sẽ tranh luận về học thuyết Con người kinh tế,
xem con người như những thực thể kinh tế vô cùng duy lý, có
tính tư lợi và tự do ý chí luôn sống ích kỷ, chạy theo lợi ích tối
đa và biết cách đưa ra lựa chọn hiệu quả. Khi quan điểm tiến
hóa và các lý thuyết tâm lý học hiện đại được sử dụng để
nghiên cứu hành vi con người trên thị trường, chúng ta sẽ thấy
học thuyết Con người kinh tế – hòn đá tảng của kinh tế học
truyền thống – thường sai lầm và thiếu thuyết phục một cách
đáng tiếc. Hóa ra, con người là những sinh vật cực kỳ bất duy
lý, và những cảm xúc sâu thẳm, vô thức được tiến hóa cùng
thời gian vĩnh hằng chi phối con người ngang bằng (thậm chí
nhiều hơn) so với những logic và lý trí hình thành trong thế
giới hiện đại.
Quan điểm thứ ba tôi không đồng tình, vốn được nhà sử
học người Anh Thomas Carlyle đưa ra 1849, xem kinh tế
học như một “khoa học ảm đạm”. S