Tóm tắt: BHXH là trụ cột quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, luật BHXH
năm 2006 đã có nhiều tiến bộ trong việc đảm bảo quyền và lợi ích về BHXH cho người lao
động, tuy nhiên đến nay do điều kiện kinh tế - xã hội đã có những thay đổi, quan hệ lao động
cũng phát triển, xu thế già hóa dân số ngày một rõ nét, đòi hỏi chính sách BHXH cần có
những thay đổi cho phù hợp, như mở rộng thêm đối tượng BHXH bắt buộc cũng như các
chế độ thụ hưởng cũng thiết kế phù hợp hơn và đặc biệt là việc lồng ghép giới vào Luật
BHXH cần được quan tâm hơn.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sửa đổi luật bảo hiểm xã hội cần quan tâm nghiên cứu để lồng ghép vấn đề giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
70
SỬA ĐỔI LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
CẦN QUAN TÂM NGHIÊN CỨU ĐỂ LỒNG GHÉP VẤN ĐỀ GIỚI
TS. Bùi Sỹ Tuấn
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt: BHXH là trụ cột quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, luật BHXH
năm 2006 đã có nhiều tiến bộ trong việc đảm bảo quyền và lợi ích về BHXH cho người lao
động, tuy nhiên đến nay do điều kiện kinh tế - xã hội đã có những thay đổi, quan hệ lao động
cũng phát triển, xu thế già hóa dân số ngày một rõ nét, đòi hỏi chính sách BHXH cần có
những thay đổi cho phù hợp, như mở rộng thêm đối tượng BHXH bắt buộc cũng như các
chế độ thụ hưởng cũng thiết kế phù hợp hơn và đặc biệt là việc lồng ghép giới vào Luật
BHXH cần được quan tâm hơn.
Từ khóa: bảo hiểm xã hội, bình đẳng giới.
Sammary:Socail Insurance is an important pillar of social security policy, social
insurance law in 2006 made progress in ensuring the rights and interests of social workers,
but so far due to economic - social conditions there have been changes such as labor
relation, trend of aging, requires Social insurance policies changes accordingly, as more
research is needed to expand compulsory social insurance coverage as well as the
beneficiary regime and especially gender mainstreaming in Social Insurance Law should be
more concerned.
Key words: social insurance, gender equality.
uật Bảo hiểm xã hội (BHXH)
được Quốc hội Khoá XI, kỳ
họp thứ 9 thông qua ngày 29
tháng 6 năm 2006 và có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Đây là
văn bản pháp luật về BHXH có giá trị
pháp luật cao nhất từ trước đến nay, có
phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm đối
tượng là người lao động trong độ tuổi lao
động, người lao động sau khi hết tuổi lao
động thuộc diện thụ hưởng BHXH hàng
tháng và thân nhân của người lao động,
người sử dụng lao động trong các loại
hình doanh nghiệp. Luật BHXH ra đời đã
đánh dấu bước phát triển mới của pháp
luật BHXH ở nước ta trong việc điều
chỉnh quan hệ BHXH giữa người lao động
với người sử dụng lao động và vai trò của
Nhà nước trong quản lý về lĩnh vực
BHXH. Trong đó, những nội dung về lồng
ghép giới trong Luật đã ngày một quan
tâm hơn như: chính sách nghỉ hưu cho lao
động nữ, chế độ thai sản, các quyền lợi về
bảo hiểm xã hội không phân biệt nam nữ...
L
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
71
Theo dự kiến, kỳ họp giữa năm 2014,
Quốc hội sẽ cho ý kiến dự thảo Luật
BHXH sửa đổi, theo chúng tôi trong lần
sửa đổi này Ban soạn thảo cần nghiên cứu
để lồng ghép cụ thể hơn các nội dung về
bình đẳng giới, đặc biệt nên xem xét quan
tâm hơn một số điểm như sau:
1. Mở rộng đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc, bổ sung quy định đối
tượng áp dụng BHXH bắt buộc đối với:
Người làm việc theo hợp đồng lao động
không xác định thời hạn, hợp đồng lao
động có thời hạn từ đủ một tháng trở lên
(kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa
người sử sụng lao động với người đại diện
theo pháp luật của người dưới 15 tuổi
theo quy định của pháp luật lao động), và
điểm “h) Người quản lý doanh nghiệp,
người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương.” i) Chủ hộ kinh doanh cá
thể; k) Người quản lý doanh nghiệp, người
quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng
tiền lương. ; quy định loại trừ đối với “người
lao động giúp việc gia đình, người đang
hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao
động hàng tháng”; và không giới hạn độ
tuổi đối với đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện.
Việc mở rộng này sẽ bảo đảm bao
quát được các đối tượng, đặc biệt là đối
với lao động có thời hạn từ 1-3 tháng, tạo
sự bình đẳng hơn giữa hình thức lao động
dài hạn và ngắn hạn, nâng cao trách nhiệm
BHXH cho người lao động của người sử
dụng lao động, đồng thời nâng cao nhận
thức của cộng đồng về việc tham gia
BHXH - tạo nên ý thức tự an sinh cho mọi
người dân. Đồng thời, việc bỏ quy định về
giới hạn độ tuổi tham gia BHXH tự
nguyện sẽ tạo điều kiện để một bộ phận
lớn người lao động có nguyện vọng được
tham gia và thụ hưởng từ chính sách
BHXH. Tuy nhiên, cần kết hợp bổ sung
thêm các quy định khác về mức đóng góp,
về chính sách hỗ trợ người dân tham gia
BHXH tự nguyện, về tăng cường tính tuân
thủ trong thực thi pháp luật BHXH nhằm
tạo thuận lợi cho cơ quan thực hiện cũng
như công tác quản lý đối tượng, Qua
đó mở rộng đối tượng tham gia BHXH
tiến gần hơn tới mục tiêu mà Trung ương
đã đề ra đến năm 2020 có 50% lực lượng
lao động tham gia BHXH. Ngoài ra, việc
mở rộng này cũng phù hợp hơn với quy
định của Bộ luật Lao động và khắc phục
một số những thiếu sót trong pháp luật
hiện hành. Theo bảng dưới đây, lực lượng
lao động tự làm và lao động gia đình
chiếm khá cao - Khu vực này rất cần thực
hiện chính sách an sinh xã hội như chính
sách BHXH.
Bảng. Lao động theo vị thế làm việc, 2001-2011
Việc làm theo vị thế Cơ cấu việc làm theo vị thế (%) Tốc độ tăng bình quân (%)
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
72
2001 2005 2006 2010 2011 2001-2005
2006-
2011
2001-
2011
Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 2,7 2,6 2,7
Lao động làm công ăn
lương 20,7 25,7 27,6 33,8 34,6 8,4 7,3 8,1
Chủ DN có thuê lao động 0,3 0,4 0,9 3,4 2,9 10,4 29,6 28,7
Lao động tự làm và lao
động gia đình 77,6 73,9 70,8 62,6 62,4 1,5 0,1 0,4
Những người khác 1,4 0,0 0,7 0,1 0,1 - - -
Nguồn: Bộ LĐTBXH, Điều tra Lao động và Việc làm các năm 2001, 2005 và 2006;
TCTK, Báo cáo điều tra Lao động và Việc làm năm 2010;
Viện KHLĐXH tính toán năm 2011 từ “Điều tra Lao động và Việc làm năm 2011” của TCTK.
Hộp: Nhu cầu ASXH của khu vực phi chính thức
Các phân tích nêu trên cho thấy mở
rộng đối tượng nêu trên là phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội cũng như
chính sách an sinh của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, góp phần lồng ghép luật
Bình đẳng giới vì đa phần lao động nữ làm
việc trong các khu vực phi chính thức, lao
Một khảo sát thực hiện bởi ILO cho thấy:
- NLĐ khu vực phi chính thức có nhu cầu cao đối với một số hình thức của
ASXH. BHYT chiếm mức độ ưu tiên cao nhất đối với cả khu vực chính thức
và phi chính thức. Các chế độ hưu trí và thương tật nghề nghiệp chiếm mức
ưu tiên cao tại khu vực thành thị trong khi chế độ hưu trí và giáo dục thì được
đánh giá cao ở nông thôn.
- Có khoảng 41,4% số người LĐ khu vực PCT ở thành thị được khảo sát sẵn
sàng tham gia đóng góp, và 16% ở khu vực nông thôn cũng sẵn sàng tham gia.
- Nếu với khả năng đóng góp bị hạn chế hiện tại mà không hề có sự hỗ trợ tham
gia đóng nào thì NLĐ khu vực PCT rất khó để đóng 25.000 rup/tháng cho
BHYT chưa kể các khoản phí bổ sung cho các chương trình khác (nhất là khu
vực nông thôn).
- NLĐ khu vực nông thôn lẫn thành thị đều có nhu cầu cao đối với BHXH và sẽ
tham gia những chương trình phù hợp với nhu cầu thuộc các ưu tiên của họ.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
73
động tự làm, lao động ngắn hạn (dưới 3
tháng).
Theo một kết quả nghiên cứu của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội cho thấy: phụ
nữ đang tham gia BHXH ít hơn nam giới ở
cả 3 loại hình: BHXH bắt buộc, BHXH tự
nguyện và BH thất nghiệp. Nguyên nhân là
do phụ nữ thường có tỷ lệ cao hơn ở những
ngành/nghề/lĩnh vực không thuộc đối tượng
BHXH bắt buộc và BHXH thất nghiệp.
2. Về chế độ thai sản
Hiện tại trong chính sách BHXH
chưa có quy định về nghỉ việc đối với lao
động nam tham gia BHXH khi vợ sinh
con, tuy nhiên trong thực tế người lao
động đã phải xin nghỉ phép hoặc nghỉ
không lương để có điều kiện chăm sóc vợ
và con trong giai đoạn đầu sinh nở.
Để góp phần đảm bảo quyền lợi của
người lao động nam có tham gia BHXH
và đóng góp vào quỹ ốm đau, thai sản
nhưng thực tế chưa được hưởng chế độ
thai sản. Và để phù hợp với thực tiễn cuộc
sống hiện nay (khi người vợ sinh con cần
có người để chăm sóc trong những ngày
đầu sinh nở), đồng thời nếu thực hiện bổ
sung quy định này vào Luật BHXH mới
sẽ phù hợp hơn với Khoản 1 Điều 13 của
Luật Bình đẳng giới quy định: “Nam, nữ
bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển
dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm
việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng,
bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các
điều kiện làm việc khác” đáp ứng nhu cầu
và nguyện vọng của đông đảo người lao
động thì việc quy định đó là cần thiết và
phù hợp.
Điều đó cũng được minh chứng qua
kết quả khảo sát của Vụ Bảo hiểm xã hội
(Bộ Lao động – Thương binh và xã hội)
đã kết luận đa số ý kiến của người sử dụng
lao động và người lao động đồng tình với
phương án người cha được nghỉ 1 tuần khi
vợ sinh. Cụ thể, với câu hỏi thời gian
người cha được nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản khi vợ sinh con, có 3 phương án
được đề xuất là 01 tuần, 02 tuần và ý kiến
khác: kết quả cho thấy có 58% người sử
dụng lao động, 21% người lao động và
50% cơ quan BHXH được hỏi đồng ý với
phương án đề xuất thời gian nghỉ là 01
tuần; 25% người sử dụng lao động, 62%
người lao động và 46% cơ quan BHXH
được hỏi đồng ý với phương án 02 tuần.
Biểu đồ: Ý kiến về trợ cấp một lần khi sinh con trong trường hợp chỉ có người cha
tham gia BHXH
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
74
Nguồn: Kết quả khảo sát thực hiện BHXH bắt buộc.
Ban soạn thảo Luật lựa chọn phương
án 2 để thể hiện trong dự thảo Luật BHXH
sửa đổi.
3. Về điều kiện tuổi đời để hưởng chế
độ hưu trí được quy định tại điều 50 và điều
51 Luật BHXH hiện nay, theo đó tuổi nghỉ
hưu được quy định chung đối với người lao
động làm việc trong điều kiện bình thường
là nam 60 và nữ 55 tuổi.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trước tốc
độ già hóa dân số nhanh ở Việt Nam, với
xu hướng tuổi thọ ngày một tăng lên
(trong khi tuổi nghỉ hưu vẫn giữ nguyên
trong hơn 50 năm nay), và đứng trước
nguy cơ về mất cân đối quỹ trong tương
lai gần thì một trong những giải pháp cần
phải được thực hiện là quy định lộ trình về
tăng dần tuổi nghỉ hưu đối với cả nam và
nữ.
Nhiều nghiên cứu đã nhận định,
chúng ta đang đứng trước xu hướng già
hóa dân số - đây là những thách thức cho
chính sách an sinh xã hội trong thời gian
tới. Thời kỳ trước năm 2009, tỷ trọng
người cao tuổi (NCT) trong tổng dân số ở
nước ta không cao và tăng chậm, chỉ từ
7,1% năm 1979 lên 7,2% năm 1989, lên
8% năm 1999 và đạt 8,7% năm 2009. Tuy
vậy, từ năm 2009 số lượng và tỷ trọng
NCT tăng rất nhanh, chỉ trong hai năm
2009 đến 2011, tỷ trọng NCT đã tăng từ
8,7% lên 9,9%, bình quân mỗi năm tăng
0,6%, riêng số người từ 65 tuổi trở lên đã
chiếm 7% dân số vào năm 2011, như vậy,
nước ta đã bước vào giai đoạn già hóa dân
số.
Thời gian để Việt Nam chuyển từ cơ
cấu dân số già hóa sang dân số già ngắn
hơn nhiều so với các quốc gia có trình độ
phát triển cao hơn. Tỉ số phụ thuộc người
già từ 65 tuổi trở lên so với dân số từ 15-
64 tăng nhanh trong thời gian tới, nhất là
từ khoảng năm 2020 trở đi.
Biểu đồ 3.1: Tỷ số phụ thuộc người già (65 tuổi trở lên)
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp
Người lao động Cơ quan BHXH
90% 92%
60%
10% 8%
40%
Không đồng ý
Đồng ý
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 38/Quý I- 2014
75
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Kết quả Tổng điều tra dân số năm 1979, 1989, 1999, 2009 và Dự báo
dân số 2009-2049 (phương án trung bình).
Thực hiện lộ trình về tăng tuổi nghỉ
hưu hợp lý vừa đảm bảo không xáo trộn
lớn đối với thị trường lao động, cơ hội
việc làm cho thế hệ trẻ, vừa đảm bảo được
các mục tiêu về cân đối quỹ BHXH trong
dài hạn.
Do vậy, cần tính đến một lô trình tăng
tuổi nghỉ hưu có thể là:
- Trước tiên là tăng dần về điều kiện
về tuổi đời hưởng lương hưu của người
lao động là cán bộ công chức, viên chức
cứ 2 năm tăng lên 1 tuổi cho đến khi nam
đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi.
- Sau đó tính đến việc mở rộng ra các
khu vực khác về điều kiện tuổi đời hưởng
lương hưu của người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động, công nhân quốc
phòng, công nhân công an, người làm việc
có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã
đóng BHXH bắt buộc, người quản lý
doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp
tác xã có hưởng tiền lương cứ 2 năm tăng
lên 1 tuổi cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ
đủ 60 tuổi.
Áp dụng quy trình tăng dần điều kiện
như vậy sẽ tạo độ trễ với giai đoạn chuẩn
bị tinh thần là phù hợp với điều kiện hiện
nay khi qua các kết quả điều tra cho thấy
đa số người lao động muốn giữ nguyên
quy định tuổi nghỉ hưu như hiện nay. Tuy
nhiên, việc không điều chỉnh ngay quy
định về tăng tuổi nghỉ hưu cũng sẽ tạo khó
khăn trong việc đảm bảo cân đối quỹ
BHXH trong dài hạn khi đây được coi là
một trong những giải pháp quan trọng.
Bên cạnh đó với lộ trình cứ 2 năm tăng 1
tuổi sẽ làm giảm thiểu tác động đến thị
trường lao động. Việc thực hiện được lộ
trình tăng tuổi lao động cũng sẽ góp phần
đáp ứng được nguyện vọng của một bộ
phận người lao động có đủ khả năng lao
động muốn được tiếp tục ở lại làm việc
sau tuổi 55 và 60. Đồng thời, qua đó cũng
thực hiện được việc lồng ghép giới, tạo cơ
hội cho cả nam và nữ được cống hiến như
nhau./.
8.4 8.4 9.4 9.3 9.9
15.9
21.9
27.9
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
1979 1989 1999 2009 2019 2029 2039 2049
Năm
Tỷ
tr
ọn
g (
%
)