TÓM TẮT
Mặc dù là một trong những khái niệm cơ sở của toàn bộ logic truyền thống, nhưng “phán đoán, thuộc
tính đơn” được các nhà nghiên cứu diễn giải khác nhau. Điều này dẫn đến sự khác nhau giữa họ về quan
điểm và cách diễn giải các dạng suy luận trực tiếp với tiền đề là các phán đoán thuộc tính đơn thuộc các
hệ thống khác nhau. Bài báo này xác định thông tin của các phán đoán theo kiểu của Bar-Hillel và
Carnap để nghiên cứu các hệ thống suy luận trực tiếp tương ứng với các diễn giải phán đoán khác nhau
đó. Kết quả cho thấy quan hệ được biểu diễn bằng hình vuông logic và phép đảo ngược của các phán
đoán thuộc tính đơn thay đổi trong các hệ thống khác nhau.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Suy luận trực tiếp với tiền đề là phán đoán thuộc tính đơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 72 (06/2020) No. 72 (06/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
3
SUY LUẬN TRỰC TIẾP VỚI TIỀN ĐỀ
LÀ PHÁN ĐOÁN THUỘC TÍNH ĐƠN
Immediate inferences with categorical judgements as premises
PGS.TS. Phạm Đình Nghiệm
Trường Đại học Luật TP.HCM
TÓM TẮT
Mặc dù là một trong những khái niệm cơ sở của toàn bộ logic truyền thống, nhưng “phán đoán, thuộc
tính đơn” được các nhà nghiên cứu diễn giải khác nhau. Điều này dẫn đến sự khác nhau giữa họ về quan
điểm và cách diễn giải các dạng suy luận trực tiếp với tiền đề là các phán đoán thuộc tính đơn thuộc các
hệ thống khác nhau. Bài báo này xác định thông tin của các phán đoán theo kiểu của Bar-Hillel và
Carnap để nghiên cứu các hệ thống suy luận trực tiếp tương ứng với các diễn giải phán đoán khác nhau
đó. Kết quả cho thấy quan hệ được biểu diễn bằng hình vuông logic và phép đảo ngược của các phán
đoán thuộc tính đơn thay đổi trong các hệ thống khác nhau.
Từ khóa: diễn giải phán đoán, mô tả trạng thái, quan hệ suy diễn, thông tin của phán đoán
ABSTRACT
The concept of categorical judgments is the basic concept of the entire traditional logic, yet the forms of
categorical judgments are interpreted differently. This can lead to differences between immediate
inferences with categorical judgments as premises. This paper identifies the information of Bar-Hillel
and Carnap’s style of categorical judgments in order to study the immediate inference systems
corresponding to these different interpretations of judgment. The results show that the logical
interference is represented by the logical square and the conversion of the categorical judgments varies
in different systems.
Keywords: judgment interpretation, state description, inference relation, information of judgment
1. Dẫn nhập
1.1. Các cách diễn giải phán đoán
thuộc tính đơn
Phán đoán thuộc tính đơn với tính cách
một khái niệm cơ sở của toàn bộ logic
truyền thống, được hiểu là nội dung của các
biểu thức ngôn ngữ thuộc (hoặc tương đương
với) một trong các dạng sau đây:
(i) Mọi S đều là P
Gọi là dạng khẳng định toàn thể.
(ii) Có (hay một số) S là P
Gọi là dạng khẳng định bộ phận.
(iii) Mọi S đều không là P
Gọi là dạng phủ định toàn thể.
(iv) Có (hay một số) S không là P
Gọi là dạng phủ định bộ phận.
S và P trong các dạng (i), (ii), (iii), (iv)
là các hạn từ - biểu thức ngôn ngữ nêu lên
một tập hợp đối tượng (một số tác giả ở
Việt Nam cho rằng S là một khái niệm - tức
Email: nghiemlogic@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
4
là một hình thức đặc biệt của tư tưởng,
phản ánh đối tượng thông qua một số đặc
điểm của nó - tuy nhiên quan điểm này
không chính xác, bởi vì “Socrate là người”
là một phán đoán, mặc dù S ở đây chính là
“Socrate” không phải là một khái niệm) Từ
đứng trước S (đôi khi vai trò của từ này
được thực hiện bởi cấu trúc của câu) được
gọi là lượng từ, từ là hoặc không là (đôi khi
vai trò của các từ này được thực hiện bởi
cấu trúc của câu) gọi là hệ từ.
Lịch sử logic học cho thấy có nhiều
cách diễn giải hạn từ và lượng từ có (hay
một số) trong phán đoán thuộc tính đơn.
Hạn từ có thể được phép rỗng (không chỉ
đối tượng nào, ví dụ: nghiệm thực của
phương trình x2 = - 1), hoặc không được
phép rỗng nghĩa là không tồn tại các hạn từ
như trong ví dụ vừa nêu. Cũng có diễn giải
phán đoán chỉ đòi hỏi chủ từ không rỗng,
còn thuộc từ có thể rỗng. Các đòi hỏi cả hai
hạn từ của phán đoán đều không rỗng và
chỉ chủ từ phải không rỗng dẫn đến cách
diễn giải khác nhau về các phán đoán phủ
định, còn với các phán đoán khẳng định thì
chúng không khác nhau. Lượng từ có (hay
một số) loại trừ trường hợp tất cả hoặc
không loại trừ trường hợp tất cả. Nếu
lượng từ có (hay một số) loại trừ trường
hợp tất cả thì phán đoán “Có sinh viên
nghiên cứu khoa học tốt” là sai khi trên
thực tế mọi sinh viên đều nghiên cứu khoa
học tốt. Nếu lượng từ có (hay một số)
không loại trừ trường hợp tất cả thì phán
đoán “Có sinh viên nghiên cứu khoa học
tốt” là đúng khi trên thực tế mọi sinh viên
đều nghiên cứu khoa học tốt.
Vì có nhiều diễn giải hạn từ và lượng
từ có như vậy, nên có nhiều diễn giải phán
đoán thuộc tính đơn khác nhau. Cụ thể:
Diễn giải I: hạn từ không thể rỗng,
lượng từ có (hay một số) không loại trừ
trường hợp tất cả.
Đây chính là cách hiểu của logic
truyền thống mà chúng ta thường gặp trong
các giáo trình Nhập môn logic hay Logic
đại cương ở Việt Nam hiện nay.
Diễn giải II: hạn từ có thể rỗng, lượng
từ có (hay một số) không loại trừ trường
hợp tất cả.
Diễn giải III: hạn từ không thể rỗng,
lượng từ có (hay một số) loại trừ trường
hợp tất cả.
Diễn giải IV: hạn từ có thể rỗng, lượng
từ có (hay một số) loại trừ trường hợp tất
cả.
Diễn giải V: chủ từ không thể rỗng,
lượng từ có (hay một số) không loại trừ
trường hợp tất cả.
Diễn giải VI: chủ từ không thể rỗng,
lượng từ có (hay một số) loại trừ trường
hợp tất cả.
Suy luận trực tiếp (suy luận chỉ có một
tiền đề, cũng có nghĩa là suy luận không sử
dụng trung từ) với tiền đề là loại suy luận
cơ sở, đặt nền móng cho tam đoạn luận
đơn, vốn là dạng suy luận trung tâm mà
việc nghiên cứu nó tạo nên nội dung chủ
yếu của logic truyền thống. Logic truyền
thống nghiên cứu các dạng suy luận trực
tiếp: (1) đảo ngược phán đoán, (2) đổi chất
phán đoán, (3) đặt đối lập vị từ, (4) suy
luận căn cứ vào hình vuông logic (theo
quan hệ phụ thuộc, đối lập trên, đối lập
dưới, mâu thuẫn). Các suy luận trực tiếp
này phụ thuộc vào các diễn giải khác nhau
về phán đoán thuộc tính đơn mà chúng tôi
nói đến trên đây. Nói cách khác, mỗi diễn
giải phán đoán thuộc tính đơn cụ thể sẽ dẫn
đến một kết quả cụ thể của suy luận trực
tiếp với tiền đề là phán đoán thuộc tính đơn
tương ứng với diễn giải đó. Bài báo này
nghiên cứu các suy luận trực tiếp (1) và (4)
trên đây ứng với các diễn giải phán đoán
PHẠM ĐÌNH NGHIỆM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
5
thuộc tính đơn khác nhau. Chúng tôi không
nghiên cứu các dạng suy luận (2) và (3), vì
trong kết luận của các dạng này có sử dụng
hạn từ mới, không có sẵn trong phán đoán
tiền đề và bởi thế không hoàn toàn là thao
tác hình thức.
1.2. Khái niệm thông tin của Bar-
Hillel và Carnap
Phương pháp mà chúng tôi sử dụng để
nghiên cứu vấn đề này là xây dựng mô
hình dựa trên khái niệm (conception) thông
tin ngữ nghĩa (Semantic Information) của
Bar-Hillel và Carnap [1953].
Bar-Hillel và Carnap [1953] sử dụng
khái niệm mô tả trạng thái (state
description - viết tắt: sd) để xác định thông
tin của mệnh đề. Thông tin của mệnh đề
được biểu đạt bằng tập hợp tất cả các sd
trong đó mệnh đề đúng. Để bạn đọc dễ
theo dõi, dưới đây chúng tôi xin trình bày
ngắn gọn lý thuyết thông tin và suy diễn
của Bar-Hillel và R. Carnap.
Mô tả trạng thái là một bản mô tả một
trạng thái nhất định của thế giới.
Mô tả trạng thái nêu rõ với mỗi đối
tượng x và mỗi tính chất (hay đặc điểm) P,
x có tính chất P hay x không có tính chất P.
Để cho tiện, ta cũng sẽ dùng P để ký hiệu
hạn từ có ngoại diên là tập hợp tất cả các
đối tượng có tính chất đang bàn đến, và chỉ
các đối tượng đó mà thôi. Ta cũng dùng P
để ký hiệu cả ngoại diên của hạn từ vừa
nêu. Khi đó thay vì nói x có tính chất P ta
sẽ nói x thuộc tập P (ký hiệu x P). Mô tả
trạng thái α được gọi là cổ điển (classical)
nếu với mọi đối tượng x và mọi tính chất P,
trong α có x P hoặc x P (Ký hiệu tương
ứng là x P α hoặc x P α), chỉ
một trong hai khả năng này. Từ đây ta tính
được, nếu có n đối tượng, m tính chất, thì
số lượng mô tả trạng thái cổ điển là 2mn.
Chẳng hạn, nếu có 3 đối tượng x1, x2, x3, và
các tính chất S, P, thì có cả thảy 22x3 = 26 =
64 sd cổ điển 1, 1, , 64. Sau đây là một
số trong đó:
1 = x1 S, x2 S, x3 S, x1 P,
x2 P, x3 P
2 = x1 S, x2 S, x3 S, x1 P,
x2 P, x3 P
41 = x1 S, x2 S, x3 S, x1 P,
x2 P, x3 P
64 = x1 S, x2 S, x3 S, x1 P,
x2 P, x3 P
Ví dụ. Ta có một chiếc bàn. Trên mặt
bàn có các đồ vật - mà ta gọi chung là đối
tượng gồm laptop, quyển sách, cây viết.
Chúng ta chỉ quan tâm đến một tính chất,
đó là màu đỏ. Bấy giờ ta có các mô tả trạng
thái của các vật trên bàn như sau:
1, Laptop đỏ, quyển sách đỏ, cây viết đỏ.
2, Laptop đỏ, quyển sách đỏ, cây viết
không đỏ.
3, Laptop đỏ, quyển sách không đỏ, cây
viết đỏ.
4, Laptop đỏ, quyển sách không đỏ, cây
viết không đỏ.
5, Laptop không đỏ, quyển sách đỏ, cây
viết đỏ.
6, Laptop không đỏ, quyển sách đỏ, cây
viết không đỏ.
7, Laptop không đỏ, quyển sách không đỏ,
cây viết đỏ.
8, Laptop không đỏ, quyển sách không đỏ,
cây viết không đỏ.
Bar-Hillel và Carnap [1953] định
nghĩa thông tin của mệnh đề là khả năng
mà việc chấp nhận mệnh đề đó tạo ra trong
việc cho phép hạn chế tập hợp tất cả các
trường hợp ban đầu lại thành tập hợp các
trường hợp trong đó mệnh đề đúng. Tập
hợp các trường hợp ban đầu là tập hợp tất
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
6
cả các sd cổ điển. State description theo
quan điểm của Israil Bar-Hillel và R.
Carnap (Mỹ) được E.K. Voisvillo (Nga) là
người đầu tiên gọi là classical, để phân biệt
với các extended state description (mô tả
trạng thái mở rộng) mà ông thêm vào
(Voisvillo E.K. 1988). Ký hiệu tập hợp đó
là M, tập hợp các sd trong đó mệnh đề A
đúng là MA, khi đó thông tin của A, ký hiệu
Inf(A) được biểu đạt bằng MA; ngắn gọn:
Inf(A) = MA.
Bar-Hillel và Carnap [1953] cho rằng,
các mệnh đề A và B có quan hệ suy diễn
với nhau, nói cách khác là từ A suy ra được
B, hay B là hệ quả logic của A (ký hiệu: A
→ B), khi và chỉ khi thông tin của B là một
phần thông tin của A.
2. Các hệ thống phán đoán thuộc
tính đơn
Chúng tôi nhóm các dạng phán đoán
khẳng định toàn thể, khẳng định bộ phận,
phủ định toàn thể và phủ định bộ phận với
cùng một trong các diễn giải vừa trình bày
trên đây thành các hệ thống tương ứng,
đánh số lần lượt là hệ thống I, hệ thống II,
hệ thống III, hệ thống IV, hệ thống V và hệ
thống VI.
Chúng tôi sử dụng ngôn ngữ logic vị
từ để trình bày các hệ thống phán đoán
khác nhau đó.
1, Hệ thống I: hạn từ không thể rỗng, lượng từ có (hay một số) không loại trừ trường hợp
tất cả
Loại phán đoán Ký hiệu Nội dung
Khẳng định toàn thể SaP xS(x) & xP(x) & x(S(x) P(x))
Khẳng định bộ phận SiP x(S(x) & P(x))
Phủ định toàn thể SeP xS(x) & xP(x) & x(S(x) P(x))
Phủ định bộ phận SoP xS(x) & xP(x) & x(S(x) & P(x))
2, Hệ thống II: hạn từ có thể rỗng, lượng từ có (hay một số) không loại trừ trường hợp tất cả
Loại phán đoán Ký hiệu Nội dung
Khẳng định toàn thể aSP x(S(x) P(x))
Khẳng định bộ phận iSP x(S(x) & P(x))
Phủ định toàn thể eSP x(S(x) P(x))
Phủ định bộ phận oSP x(S(x) & P(x))
3, Hệ thống III: hạn từ không thể rỗng, lượng từ có (hay một số) loại trừ trường hợp tất cả
Loại phán đoán Ký hiệu Nội dung
Khẳng định toàn thể SAP xS(x) & x(S(x) P(x))
Khẳng định bộ phận SIP x(S(x) & P(x)) & x(S(x) & P(x))
Phủ định toàn thể SEP x & x(S(x) P(x))
Phủ định bộ phận SOP x(S(x) & P(x)) & x(S(x) & P(x))
PHẠM ĐÌNH NGHIỆM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
7
4, Hệ thống IV: hạn từ có thể rỗng, lượng từ có (hay một số) loại trừ trường hợp tất cả
Loại phán đoán Ký hiệu Nội dung
Khẳng định toàn thể ASP x(S(x) P(x))
Khẳng định bộ phận ISP x(S(x) & P(x)) & x(S(x) & P(x))
Phủ định toàn thể ESP x(S(x) P(x))
Phủ định bộ phận OSP x(S(x) & P(x)) & x(S(x) & P(x))
5, Hệ thống V: chủ từ không thể rỗng, lượng từ có (hay một số) không loại trừ trường hợp
tất cả
Loại phán đoán Ký hiệu Nội dung
Khẳng định toàn thể SPa xS(x) & x(S(x) P(x))
Khẳng định bộ phận SPi x(S(x) & P(x))
Phủ định toàn thể SPe xS(x) & x(S(x) P(x))
Phủ định bộ phận SPo x(S(x) & P(x))
6, Hệ thống VI: chủ từ không thể rỗng, lượng từ có (hay một số) loại trừ trường hợp tất cả
Loại phán đoán Ký hiệu Nội dung
Khẳng định toàn thể SPA xS(x) & x(S(x) P(x))
Khẳng định bộ phận SPI x(S(x) & P(x)) & x(S(x) & P(x))
Phủ định toàn thể SPE xS(x) & x(S(x) P(x))
Phủ định bộ phận SPO x(S(x) & P(x)) & x(S(x) & P(x))
Nhận xét: trong các hệ thống II, IV, VI
các phán đoán khẳng định bộ phận và phủ
định bộ phận trùng nhau, nên về thực chất
chỉ có 3 dạng phán đoán.
3. Xác định thông tin của các phán
đoán thuộc tính đơn
3.1. Các khái niệm và ký hiệu
Cấu trúc mô hình (hay mô hình, tiếng
Anh: Model Structure – viết tắt: MS) là bộ
5 U, , , 0, . Trong đó U (viết tắt của
Universe) là một tập hợp không rỗng các
đối tượng; là tập hợp các hạn từ (mỗi hạn
từ được đồng nhất với một tập con của U,
là tập các đối tượng mà hạn từ đó nói đến,
và để cho tiện chúng ta gọi là ngoại diên
của hạn từ đó); là tập hợp thế giới có thể
(possible world)- thuật ngữ possible world
lần đầu tiên được sử dụng trong nghiên cứu
logic hình thái (Kripke S. 1959) - ở đây
chính là các mô tả trạng thái cổ điển
(classical state description); tập con 0
không rỗng của chúng tôi gọi là tập hợp
các thế giới phù hợp (0 được xác định phù
hợp với diễn giải các hạn từ trong phán
đoán thuộc tính đơn); là một ánh xạ từ
tập hợp tất cả các cặp đến tập hợp
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
8
giá trị chân lý {T, F}, trong đó là một thế
giới có thể, A là một công thức (với công
trình này công thức chính là biểu thức ngôn
ngữ biểu đạt các mệnh đề, trong đó có các
phán đoán), nói cách khác, cho biết công
thức A đúng hay sai trong thế giới có thể .
Để cho ngắn gọn, sau đây chúng tôi
dùng ký hiệu TA/ thay cho (A,) = T
(nghĩa là công thức A đúng trong thế giới
), dùng ký hiệu FA/ thay cho (A,) =
F (nghĩa là công thức A sai - tức là không
đúng - trong thế giới ).
Với thế giới , ánh xạ được xác
định như sau:
T(xS(x))/ Tồn tại x sao cho x
S là phần tử của (ký hiệu x S ).
Tx(S(x) & P(x))/ Tồn tại x sao
cho x S và x P .
Tx(S(x) & P(x))/ Tồn tại x sao
cho x S và x P .
Tx(S(x) & P(x))/ Tồn tại x sao
cho x S và x P .
Tx(S(x) P(x))/ Với mọi x, nếu
x S thì x P .
Tx(S(x) P(x))/ Với mọi x,
nếu x S ) thì x P .
Với mọi công thức A, B, mọi mô tả
trạng thái :
FA/ không phải TA/.
T(A)/ FA/.
T(A & B) / TA/ và TB/.
T(A B) / Chỉ có TA/ hoặc
TB/.
T(A B) / TA/ hoặc TB/,
không thể cùng có TA/ và TB/.
T(A B) / FA/ hoặc/và TB/.
Định nghĩa 1. Công thức A được gọi là
đúng trong một cấu trúc mô hình cụ thể
nếu A đúng trong mọi thế giới thuộc tập
hợp 0 của cấu trúc mô hình đó.
Định nghĩa 2. Công thức A được gọi là
Quy luật logic, hay là hằng đúng (ký hiệu
╞ A) nếu A đúng trong mọi cấu trúc mô
hình.
Định nghĩa 3. Trong cấu trúc mô hình
hai phán đoán thuộc tính đơn A và B gọi
là mâu thuẫn với nhau nếu trong mọi thế
giới 0 của A và B không thể cùng
đúng, cũng không thể cùng sai.
Định nghĩa 4. Hai phán đoán thuộc
tính đơn A và B gọi là mâu thuẫn với nhau
nếu A và B mâu thuẫn với nhau trong mọi
cấu trúc mô hình.
Định nghĩa 5. Trong cấu trúc mô hình
hai phán đoán thuộc tính đơn A và B gọi
là đối lập dương với nhau nếu trong mọi
thế giới 0 của A và B không thể
cùng đúng, nhưng A và B cùng sai trong
một số thế giới 0 của . Đối lập
dương gồm 3 phân loại là Đối lập trên, đối
lập trái, đối lập phải.
Định nghĩa 6. Hai phán đoán thuộc
tính đơn A và B gọi là đối lập trên (tương
ứng là đối lập trái, đối lập phải) với nhau
khi và chỉ khi tồn tại cấu trúc mô hình
sao cho A đối lập trên với B trong , và
trong tất cả các mô hình khác ( ), A
mâu thuẫn với B.
Định nghĩa 7. Trong cấu trúc mô hình
hai phán đoán thuộc tính đơn A và B gọi
là đối lập dưới (hay đối lập âm) với nhau
nếu trong mọi thế giới 0 của A và
B không thể cùng sai, nhưng A và có thể
cùng đúng trong một số thế giới 0
của .
Định nghĩa 8. Hai phán đoán thuộc
tính đơn A và B gọi là đối lập dưới với
nhau khi và chỉ khi tồn tại cấu trúc mô hình
PHẠM ĐÌNH NGHIỆM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
9
sao cho A đối lập dưới với B trong , và
trong tất cả các mô hình khác ( ), A
và B không cùng sai.
Định nghĩa 9. Trong cấu trúc mô hình
phán đoán thuộc tính đơn B gọi là phụ
thuộc phán đoán A khi và chỉ khi với mọi
thế giới 0 của nếu A đúng trong
thì B cũng đúng trong , nhưng nếu B
đúng trong thì A cũng không bắt buộc
phải đúng trong (nghĩa là tồn tại 0
sao cho B đúng trong và A sai trong ).
Định nghĩa 10. Phán đoán thuộc tính
đơn B gọi là phụ thuộc phán đoán A khi và
chỉ khi tồn tại cấu trúc mô hình sao cho
B phụ thuộc A trong , và trong tất cả các
mô hình khác ( ), với mọi thế giới
0 của , ta có nếu A đúng trong thì B
cũng đúng trong .
Quan niệm trên của Bar-Hillel và
Carnap về thông tin và quan hệ suy diễn,
đến đây được chúng tôi điều chỉnh cho phù
hợp với việc sử dụng khái niệm cấu trúc mô
hình. Thông tin của công thức (biểu thức
ngôn ngữ hình thức biểu diễn phán đoán,
mệnh đề, hàm mệnh đề) được và chỉ được
xác định phụ thuộc vào từng cấu trúc mô
hình cụ thể, không có khái niệm thông tin
độc lập khỏi các cấu trúc mô hình. Quan hệ
suy diễn được hiểu ở cả cấp độ cấu trúc mô
hình và khái quát, không phụ thuộc vào cấu
trúc mô hình cụ thể.
Định nghĩa 11. Trong cấu trúc mô hình
, ký hiệu thông tin của công thức A là
Inf(A), khi đó: Inf(A) = { 0 TA/}.
Cùng với khái niệm thông tin chúng
tôi xác định quan hệ suy diễn giữa các
công thức A và B trong cấu trúc mô hình
(ký hiệu A B nghĩa là trong , B là hệ
quả logic của A, hay từ A có thể suy ra B).
Định nghĩa 12. A B Inf(A)
Inf(B).
A B khi và chỉ khi Inf(B) = Inf(A).
Ký hiệu quan hệ suy diễn giữa A và B
là A B, nghĩa là B là hệ quả logic của A,
hay từ A suy ra được B, ký hiệu A B
nghĩa là từ A không suy ra được từ B), khi
đó:
Định nghĩa 13. A B A B với
mọi cấu trúc mô hình .
A B có cấu trúc mô hình trong
đó không phải A B.
Định nghĩa 14. Cho p, q, r, s lần lượt là
các phán đoán khẳng định toàn thể, phủ
định toàn thể, khẳng định bộ phận, phủ
định bộ phận, tất cả đều có chủ từ S và
thuộc từ P; cho u, v, w, z lần lượt là các
phán đoán khẳng định toàn thể, phủ định
toàn thể, khẳng định bộ phận, phủ định bộ
phận, tất cả đều có chủ từ P và thuộc từ S.
Khi đó, trong cấu trúc mô hình :
p đảo ngược thuần túy p u.
p đảo ngược hạn chế p w.
q đảo ngược thuần túy q v.
q đảo ngược hạn chế q z.
r đảo ngược thuần túy r w.
r đảo ngược mở rộng r u.
s đảo ngược thuần túy s z.
s đảo ngược mở rộng s v.
Phán đoán không đảo ngược được
trong , nếu trong nó là phán đoán toàn
thể và không đảo ngược thuần túy, cũng
không đảo ngược hạn chế được, hoặc nó là
phán đoán bộ phận và không đảo ngược
thuần túy, cũng không đảo ngược mở rộng
được.
Định nghĩa 15. Phán đoán p gọi là đảo
ngược thuần túy được (đảo ngược hạn chế,
đảo ngược mở rộng, đảo ngược) khi và chỉ
khi nó đảo ngược thuần túy (đảo ngược hạn
chế, đảo ngược mở rộng, đảo ngược) được
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020)
10
trong mọi cấu trúc mô hình. Phán đoán
không đảo ngược được nếu tồn tại cấu trúc
mô hình trong đó phán đoán đó không đảo
ngược được.
3.2. Chọn cấu trúc mô hình để xác
định thông tin của các phán đoán
Chúng ta lựa chọn một mô hình vừa
đơn giản để nghiên cứu, vừa đảm bảo bao
quát hế