Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam

Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Suy thoái đa dạng sinh học hiện nay là một vấn đề vô cùng quan trọng. Và đặt ra trước mắt chúng ta một câu hỏi lớn là phải làm gì để đảm bảo cho đa dạng sinh học được vững bền.

doc21 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 5569 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Suy thoái đa dạng sinh học hiện nay là một vấn đề vô cùng quan trọng. Và đặt ra trước mắt chúng ta một câu hỏi lớn là phải làm gì để đảm bảo cho đa dạng sinh học được vững bền. ĐDSH, nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, ĐDSH đang bị suy thoái nghiêm trọng. Các hệ sinh thái bị tác động và khai thác quá mức; diện tích rừng, nhất là rừng nhiệt đới bị thu hẹp một cách báo động. Tốc độ tuyệt chủng của các loài ngày một tăng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai/các hậu quả cực đoan về khí hậu. Và hệ quả cuối cùng là hệ thống kinh tế bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, nhất là ở các nước đang và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Là một nước đang trong thời kỳ đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Việt nam đang từng bước vô tình gây ra suy thoái đa dạng sinh học một cách nhanh chóng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh như hiện nay. Nó cũng là một vấn đề rất nan giải cho môi trường sống, cho môi trường sinh thái hiện nay. Các vấn nạn làm đe dọa tính đa dạng sinh học của nước ta như: chiến tranh, cháy rừng, đô thị hóa, di dân, gia tăng dân số, biến đổi khí hậu toàn cầu…rất nhiều nguyên nhân khác đang từng ngày ăn sâu và hủy hoại hành tinh xanh của chúng ta. Để rõ về nguyên nhân sâu xa đang từng ngày đe dọa cuộc sống của các sinh vật trên thế giới hay cũng như chính là hiểm họa lớn nhất của nhân loại chúng ta cùng nhau đi sâu tìm hiểu vấn đề này để tìm ra phương hướng giúp bảo tồn được thiên nhiên được trong sạch, vững mạnh, phát triển một cách bền vững hơn bao giờ hết…... NỘI DUNG I. ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ SUY THOÁI ĐA DẠNG SINH HỌC LÀ GÌ? Đa dạng sinh học là gì? Đa dạng sinh học( ĐDSH) là một chuỗi tuần hoàn khép kín, giữa các hệ sinh thái có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại, tương hỗ với nhau, nếu một trong những khâu nào đó bị ảnh hưởng sẽ tác động đến những khâu còn lại. Suy thoái đa dạng sinh học là gì? Đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng suy thoái rất nghiêm trọng. Rừng Việt Nam đang bị chặt phá với mức độ đáng báo động nhưng cái nguy hại hơn của mất rừng chính là việc xé nhỏ các khu rừng thành các mảng rừng có diện tích nhỏ dẫn đến mất môi trường sống của các loài, đặc biệt là các loài thú có phạm vi hoạt động. Các loại động vật, thực vật quý hiếm liên tục bị đe dọa và giảm rất nhanh về số lượng do săn bắn, khai thác, thậm chí do chết đói hoặc chết vì môi trường sống không còn phù hợp, các loài vi sinh vật đất cũng bị đe dọa nghiêm trọng do bị xói mòn, rửa trôi, sạt lở và feralit hóa. Sách đỏ Việt Nam năm 1996 đã thống kê 356 loài thực vật đang bị đe dọa ở mức độ khác nhau, bao gồm: thực vật có mạch bậc cao: 337 loài; thực vật bậc thấp: 19 loài. Về động vật cũng có 365 loài đang bị đe dọa( sách đỏ Việt Nam 1992): Phân hạng động vật theo sách đỏ ở Việt Nam Phân hạng Lớp Nguy cơ tuyệt chủng Dễ tổn thương Bị đe dọa Hiếm Chưa xác định Thú 30 23 1 24 - Chim 14 6 32 31 - Bò sát 8 19 16 11 - Cá 6 24 13 29 3 Không xương sống 10 24 9 29 3 Tổng số 68 97 71 124 6 II. NGUYÊN NHÂN GÂY SUY THOÁI ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM. Nguyên nhân trực tiếp Chiến tranh Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã hứng chịu 72 triệu lít chất dioxine, khoảng 13 triệu tấn bom đạn( tạo ra 23 triệu hố bom lớn nhỏ), bom cháy và xe ủi đất, kết quả là thêm 2 triệu ha rừng đã tiêu hủy, bên cạnh đó việc khai hoang, phá rừng làm ruộng để phục vụ kháng chiến và đời sống nhân dân cũng đã phá bỏ một diện tích rừng khá lớn. Cháy rừng Hàng triệu năm qua, quy luật tự nhiên đã đưa các cánh rừng già trải qua vô vàn cơn hoả hoạn. Vài trăm năm trở lại đây, lực lượng cứu hoả ở các vạt rừng rậm rạp được huấn luyện để dập lửa càng nhanh càng tốt. Song có ý kiến quả quyếtrằng, thành công ngày càng cao trong chữa cháy chưa hẳn đã là một tín hiệu đáng mừng. Khi người ta đang cố sức ngăn cản lửa thực hiện nhiệm vụ điều hoà hệ sinh thái tự nhiên thì thảm hoạ với những cánh rừng, với những con người sống xung quanh nó ngày càng lớn. Lửa đóng vai trò thiết yếu trong việc quét sạch các tàn tích cũ và tạo nên diện mạo mới cho khu rừng. Nếu không có lửa thì những cành cây khô và lá rụng sẽ không được làm sạch thường xuyên; qua thời gian, lớp thực vật này bị mục dần và biến thành tầng tầng lớp lớp nhiên liệu gây cháy ngay dưới nền của khu rừng. Để rồi một ngày kia, chỉ cần một mồi lửa nhỏ, chúng sẽ bùng lên ngùn ngụt, thiêu rụi với tốc độ và mức độ kinh hoàng hơn bất kỳ đám cháy thông thường nào. Khi điều đó xảy ra, hiểm hoạ đến với khu vực dân cư lân cận là điều không phải bàn cãi. Bên cạnh đó, lửa còn có vai trò tái tạo. Một số cây như gỗ thông chỉ có thể sinh sôi nhờ một tác nhân là lửa; loài cây này khép chặt các bó hạt giống trong lớp nhựa cây và chỉ dưới sức nóng của lửa, lớp nhựa cây này mới tan chảy và giải phóng các bó hạt. Suy thoái cũng giống như một trận cháy rừng - nó sẵn sàng thiêu rụi mọi vật cản trên đường đi. Từ hàng trăm năm qua, các quốc gia và các tập đoàn đã ra sức chống chọi trước từng đợt khủng hoảng tàn khốc bằng những chính sách tài khoá và tiền tệ ở quy mô quốc gia lẫn quy mô đơn lẻ của từng tổ chức. Nhưng rồi, kết cục, cho tới tận ngày hôm nay, con người vẫn tiếp tục vật lộn. Khai thác quá mức Tài nguyên rừng được coi là “lá phổi” của trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học trên hành tinh. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên rừng luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong cuộc chiến đầy gian khó hiện nay nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của con người gây ra. Rừng thường được người dân địa phương dùng làm nơi chăn thả gia súc và sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, rừng cũng là nguồn cung cấp cho người dân nhiều sản vật như củi đun, gỗ, động thực vật hoang dã làm thức ăn và làm thuốc. Khai thác và buôn bán bất hợp pháp các loài động, thực vật hoang dã quí hiếm là một trong những nguyên nhân chính làm suy giảm sự đa dạng sinh học trên toàn cầu. Vì vậy, cộng đồng quốc tế, trong đó có Chính phủ Việt Nam, đã ký cam kết về kiểm soát buôn bán các loài động, thực vật bị đe dọa tuyệt chủng (Công uớc CITES). Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã tạo điều kiện cho thương mại phát triển mạnh mẽ, trong đó có buôn bán các loài động, thực vật hoang dã và Việt Nam cũng là một điểm nóng về buôn bán loại hàng hóa này. Tuy nhiên, rất khó xác định các sản phẩm và tiêu bản như da, lông, sừng, xương ... có xuất xứ từ động thực vật hoang dã, gây khó khăn cho việc kiểm soát của các cơ quan chức năng. Gần đây, chỉ thị phân tử ADN đã được sử dụng để giám định chính xác nguồn gốc của các loại tiêu bản này, vì ADN có cấu trúc đặc trưng cho loài và quần thể địa lý, tạo cơ sở pháp lý để ngăn chặn buôn bán trái phép động thực vật hoang dã. Việc buôn bán, xuất nhập khẩu động thực vật hoang dã cũng tạo thuận lợi cho sự hình thành các quần thể lai, làm mất đi giá trị của sự đa dạng di truyền. Vì mỗi loài và quần thể đều đã có sự tiến hóa thích nghi với các môi trường sống khác nhau trong phạm vi phân bố của loài. Cấu trúc ADN cũng đặc trưng cho quần thể, nên đã được sử dụng làm chỉ thị về sự lai tạp giữa các quần thể hoặc loài có quan hệ gần gũi. Việc lưu giữ số liệu ADN nguyên gốc của các loài và quần thể địa phương sẽ tạo cơ sở quan trọng để đánh giá và bảo tồn sự toàn vẹn của loài và quần thể. Động vật hoang dã quí hiếm là tài sản quí giá của quốc gia, nên việc bảo vệ và phát triển chúng luôn là một nhiệm vụ cấp bách. Việc bảo tồn đa dạng sinh đòi hỏi những hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng lĩnh vực sinh học và di truyền bảo tồn đóng vai trò rất quan trọng, tạo cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát triển bền vững. Xây dựng cơ sở hạ tầng Xây dựng cơ sở hạ tầng gồm đường giao thông, cầu phà… đến tiến trình phát triển đất nước. Thiếu quy hoạch, thiếu cơ sở khoa học có ảnh hưởng đến đa dạng sinh học Ví dụ: Xây dưng đường Trường Sơn, các tuyến đường đi bộ… dẫn đến làm mất tính liên tục của vùng phân bố các loài, gây nhiễu loạn và làm suy thoái đa môi trường tự nhiên. Ô nhiễm môi trường nước Do sự phát triển chậm, nước ta đã phải sử dụng những máy móc lạc hậu, nhập khẩu máy móc đã qua sử dụng, trong khi đó việc sử lý nước thải, rác thải nhà máy chưa được thực hiện nghiêm túc, rác thải, nước thải bệnh viện và chất thải sinh hoạt cũng chưa được sử lý tốt, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng… các hành động trên đã làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt, nhất là ở các thành phố lớn. nước biển cũng bị ô nhiễm nặng, nhất là vùng ven bờ, do các phương tiện vận tải biển thải ra và do các vụ đắm tàu, nhất là tàu chở dầu. Di nhập và xâm lấn của các loài sinh vật lạ Đa dạng sinh học của nước ta đã và đang bị nguy hại bởi các loài ngoại lai như: bèo nhật bản, hoa trinh nữ, ốc bươu vàng, sáo nâu, chào mào đỏ đít, sáo đá xanh…trong đó nghiêm trọng nhất là sáo đá xanh và trinh nữ đầm lầy. Nguyên nhân gián tiếp Mất và phá hủy nơi cư trú Ở Việt Nam mất nơi sống có nhiều nguyên nhân như: do phá rừng trồng cao su, cà phê, do chất độc hóa học, bom đạn đã sử dụng trong chiến tranh, do phá rừng để trồng cây nông nghiệp, do xâm lấm biển để nuôi trồng thủy sản, do di dân để phát triển vùng kinh tế mới, do cháy rừng... Sự gia tăng dân số và di cư Do nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu của con người: mở rộng đất nông nghiệp, xâm lấn vào đất rừng. Chúng ta thấy sự đông dân khiến người ta sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn dẫn đến suy thoái đa dạng sinh học mạnh hơn. Chừng nào chúng ta chưa thay đổi cách sống, chưa ngừng hủy hoại môi sinh và các sinh vật khác thì sự sống sót và sự phát triển của chúng ta còn nhiều nguy cơ. Di dân là nguồn nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học: như phát triển các vùng kinh tế mới, thay đổi cơ cấu dân số và tập quán canh tác của miền núi. Sự đói nghèo cũng ảnh hưởng đến đa dạng sinh học: người nghèo không có ruộng, đất bị bạc màu dẫn đến phá rừng lấy đất canh tác. Chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng sâu sắc ở qui mô lớn đến đa dạng sinh học nhất là trong thời kì đổi mới. Biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu ĐDSH, nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, ĐDSH đang bị suy thoái nghiêm trọng. Các hệ sinh thái bị tác động và khai thác quá mức; diện tích rừng, nhất là rừng nhiệt đới bị thu hẹp một cách báo động. Tốc độ tuyệt chủng của các loài ngày một tăng. Hậu quả tất yếu dẫn đến là sẽ làm giảm/mất các chức năng của hệ sinh thái như điều hoà nước, chống xói mòn, đồng hóa chất thải, làm sạch môi trường, đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trong tự nhiên, giảm thiểu thiên tai/các hậu quả cực đoan về khí hậu. Và hệ quả cuối cùng là hệ thống kinh tế bị suy giảm do mất đi các giá trị về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, nhất là ở các nước đang và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Đa dạng sinh học là cơ sở quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sự tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, ĐDSH đã và đang bị ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng. Theo Báo cáo triển vọng Môi trường toàn cầu của Liên Hợp Quốc 2007, thì BĐKH đang gây ra tình trạng suy thoái môi trường trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi thế giới phải hành động nhanh chóng hơn bao giờ hết. Đối với Việt Nam - một trong những nước được dự báo sẽ bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH thì có lẽ vấn đề bảo vệ ĐDSH cần phải được quan tâm triệt để. Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý Những chính sách nhà nước, những chương trình hiện tại để bảo vệ rừng và rừng đầu nguồn chưa đáp ứng được nhu cầu để sự tác động đến rừng và sự phát triển cộng đồng một cách lâu bền và thống nhất. Ngoài ra, sự kết hợp đáng tiếc những mảng sinh cảnh và những áp lực của nhu cầu con người đối với tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đòi hỏi phải có công tác bảo tồn sáng tạo và những chiến lược quản lý. Nhìn chung, những công tác tổ chức không hiệu quả, trách nhiệm quản lý bị phân tán, hỗ trợ tài chính không đủ, tham gia của cộng đồng hạn chế, và tư vấn kỹ thuật kém hiệu quả trong phát triển kinh tế là những hạn chế cơ bản đối với công tác bảo tồn tính đa dạng sinh học ở Việt Nam. một số ví dụ cụ thể Trong nhiều năm qua, thị trấn Tam Đảo đã bị lợi dụng bíến thành một trong những trung tâm tiêu thụ động vật hoang dã của miền Bắc. Kết quả điều tra không chính thức của một tổ chức phi chính phủ khoảng 2 năm trước đây cho thấy đa số các nhà hàng, khách sạn ở Tam Đảo đều phục vụ “đặc sản thú rừng”, tuy nhiên thường là “bí mật” để tránh sự kiểm soát của lực lượng kiểm lâm và các tổ chức bảo tồn. Động vật bị bắt về được chia nhỏ thành nhiều phần và ướp lạnh, do những người thu gom mua lại từ thợ săn và mang đến các nhà hàng khi được yêu cầu. Trong báo cáo của Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GTZ) phối hợp với cán bộ Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật (IEBR) thực hiện năm 2001 cho thấy một số địa điểm thường xuyên diễn ra hoạt động mua bán động vật hoang dã như: thôn Thai Bạ (xã Thiện Kế), thôn Đồng Phai (xã Hợp Hòa), thôn Khuân Nanh, Đầm Làng (xã Yên Lãng), thôn Chiểm 1 và Hòa Bình 2 (xã Quân Chu), xóm Chuối (xã Ký Phú) thuộc vùng đệm VQG. Ngoài mục đích phục vụ cho các nhà hàng đặc sản, động thực vật ở đây còn bị khai thác để ngâm rượu (rắn, tắc kè, kỳ đà, bìm bịp, ong) và làm đồ lưu niệm bán cho khách du lịch (rùa đất xpeng-lơ, rùa sa nhân và cá cóc – loài lưỡng cư quý hiếm chỉ có ở Tam Đảo và một số ít vùng lân cận). Tình trạng này chỉ mấy năm trước đây vẫn còn diễn ra khá công khai. Bên cạnh đó, Tam Đảo được coi là nơi buôn bán cũng như trung chuyển côn trùng. Sự săn bắt quá mức đã làm suy giảm đáng kể lượng côn trùng ở đây, đặc biệt là các loài rất quý hiếm như bướm Phượng Teinopalpus spp. và cặp kìm Odontolabis cuvera. Việc buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã trên địa bàn thị trấn Tam Đảo gây ra những tác động mạnh đến “an toàn sinh học” tại VQG Tam Đảo. Thống kê cho thấy trong tổng số 64 loài bị săn bắt và buôn bán tại Tam Đảo có tới 31 loài quý hiếm. Nhiều loài động thực vật, đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế đã bị khai thác cạn kiệt hoặc không còn tồn tại. Điều này xảy ra đối với các nhóm: Linh trưởng, Thú họ Mèo, nhóm Gấu, Thú gặm nhấm, nhóm chim và nhóm rùa. Các nhà khoa học nhận định tình trạng khai thác và buôn bán lâm sản, đặc biệt là động vật hoang dã (ĐVHD) ở VQG Tam Đảo là một trong các tác nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đa dạng sinh học của khu vực Tam Đảo. Dòng suối Bạc chảy qua thị trấn Tam Đảo. Đây cũng là nơi tiếp nhận trực tiếp nước thải sinh hoạt của trên 300 hộ dân và các nhà hàng, khách sạn kinh doanh tại thị trấn và đổ xuống xã Hồ Sơn, nơi có hàng nghìn người dân sinh sống và sử dụng nguồn nước này cho tưới tiêu và sinh hoạt. Mức độ ô nhiễm nước suối Bạc tập trung vào mùa du lịch bởi trong khoảng thời gian này trung bình mỗi tuần thị trấn Tam Đảo đón khoảng 1.400 du khách đến tham quan, nghỉ mát. Nhìn những gì đang diễn ra ở Tam Đảo 1 mà liên tưởng tới những gì sẽ đến nếu nay mai hình thành thêm khu du lịch Tam Đảo 2. Liệu những người dân vùng đệm VQG Tam Đảo, những người sống “tựa lưng vào rừng” có được đổi đời nhờ chủ trương này của tỉnh hay không và rồi tương lai của VQG Tam Đảo sẽ đi tới đâu? III. HẬU QUẢ Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên này, nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa Phát triển kinh tế đang khai thác quá mức và phí phạm nguồn tài nguyên quý giá này. Nhiều loài hiện đã trở nên hiếm một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt nguồn tài nguyên sinh học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị thế nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh chóng. IV. BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Nhằm khắc phục tình trạng mất môi trường của động vật cũng như bảo vệ các nguồn gen thực vật, từ lâu Nhà nước đã phê chuẩn xây dựng hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên Vườn quốc gia. Trong quá trình xây dựng và phát triển đã nảy sinh một số vấn đề cần khắc phục. Trong hệ thống các Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam đã đề nghị nâng từ 87 khu với tổng diện tích gần 1 triệu ha (996.000 ha) lên 95 khu với tổng diện tích dự kiến 2.200.000 ha, chiếm 6% tổng diện tích lãnh thổ. 184 loài động vật (chiếm 85,19% thuộc diện quý hiếm đặc hữu). Ở Việt Nam từ trước đến nay, các loài thực vật, động vật bị suy giảm nhiều là do nạn khai thác một số cây gỗ trong rừng thì lại chặt hạ biết bao nhiêu các loài thực vật xung quanh, gây thiệt hại cả một vùng đa dạng sinh học rộng lớn. Đồng thời với nạ phá rừng, nạn săn bắn bừa bãi thiếu ý thức cũng gây nên tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Săn bắn, đuổi bắt là mối đe doạ lớn đối với động vật, đặc biệt đối với các loài quý hiếm. Các loài có giá trị kinh tế cao, các loài có chức năng trong đấu tranh sinh học, giữ cân bằng sinh thái tự nhiên mất dần. Hiện nay nhiều vùng nông thôn vắng hẳn bóng các loài chim là do nạn săn bắn bằng đủ các loại vũ khí. Theo nguồn tư liệu điều tra thì cho đến năm 2001 toàn quốc có tới 39.671 khẩu súc các loại hiện đang sử dụng để săn bắn chim thú, bình quân mỗi thôn bản có 12 khẩu (Đỗ Tước - Viện điều tra quy hoạch rừng – 1999) trong đó các loại súng tự chế vẫn được sử dụng phổ biến ở các làng xã miền núi đó là chưa kể đến các loại bẫy thường dùng như: bẫy treo, bẫy kẹp, bẫy thòng lọng, bẫy sập, bẫy lồng, lưới..., do vậy số loài bị săn bắt khá cao. Với tình trạng săn bắt quá mức các loài động vật rừng cũng như khai thác cạn kiệt nguồn lợi cá, hải sản gần bờ - dẫn tới nghèo kiệt các nguồn đa dạng sinh học. Ví dụ, loài voọc đầu trắng – loài thú đặc hữu ở Vườn quốc gia Cát Bà cách đây 5 năm (1995) với số lượng khoảng 200 cá thể - nhưng nay chỉ còn 150 cá thể. Loài chà vá chân nâu chỉ còn khoảng 200 cá thể. Tại Vườn quốc gia Bến En (Thanh Hoá) cách đây 4 năm vẫn thấy có voi, bò tót, nhưng nay không còn tìm thấy. Voi ở Tây Nguyên trước năm 1978 ước tính có khoảng 800 – 900 con sống trong rừng, có những đàn đông cá thể 20 – 30 con/đàn, nay không còn những đàn đông như vậy, số lượng voi của cả nước hiện nay chỉ còn khoảng 250 – 300 con. Với tình trạng săn bắt, bẫy bắt các loài động vật như hiện nay thì ước tính mỗi năm có khoảng 700.000 cá thể động vật rừng bị khai thác, trong số này khoảng 30% số loài đã được ghi trong Sách đỏ thế giới và Việt Nam cũng như trong Nghị định 18/CP của Hội đồng Chính phủ. Đây là tình trạng đáng báo động vì lẽ hiện trạng này sẽ nhanh chóng làm nghèo kiệt các hệ sinh thái, các loài động vật rừng sẽ bị huỷ diệt nhanh chóng. Tuy vậy, tập trung vào bảo tồn các loài cũng không thể bỏ qua. Trên thực tế, phải thừa nhận rằng thường những giá trị của các loài đặc biệt về mặt kinh tế hoặc khoa học đáng được chúng ta quan tâm như các loài hoang dại có họ hàng với cây trồng và vật nuôi, các loài ở rừng hoặc cây dược liệu. Vì vậy chúng ta cần theo quan điểm bảo tồn tổng hợp: Trong mỗi trường hợp, nếu thích hợp có thể chấp nhận tất cả các phương pháp tại chỗ (in situ), ngoại vị (ex