Tác động tích cực và hạn chế của công cuộc tư bản hóa của thực dân pháp ở Việt Nam từ 1858-1945

Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam đã lùi xa vào dĩ vãng. Những ngày tháng chiến tranh khói lửa cũng đã qua đi, đất nước đẫ và đang được sống những ngày thanh bình, tươi đẹp. Cuộc sống mới đang cuốn con người vào vòng xoáy của những lo toan bận rộn nên không mấy ai có thời gian để ngồi ngẫm nghĩ lại những ngày tháng khốc liệt đã qua. Nhưng những nhà sử học thì luôn không ngừng tìm tòi, nghiên cứu và suy ngẫm để tìm ra những sự thật, để đưa Lịch sử ngày càng đến gần với thực tế hơn. Bởi hơn một nửa thế kỷ đã qua đi, song lịch sử vẫn để lại cho chúng ta những dấu hỏi về những ngày tháng cả dân tộc chìm đắm dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Tội ác của kẻ xâm lược, nhân loại đã được chứng kiến. Thắng lợi của nhân dân ta, lịch sử đã ghi công. Nhưng nhìn lại, chúng ta vẫn cần xem xét xem đằng sau những gì mà thực dân Pháp đã gây ra ấy liệu đất nước ta có chịu những tác động gì mang chiều hướng tích cực hay không? Trước đây, với cách nhìn nhận cũ, chúng ta vẫn chỉ thường xem xét cuộc chiến tranh ấy với những gì tiêu cực nhất. Nhưng kể từ sau sự nghiệp đổi mới của Đảng ta (1986), tư duy lịch sử của các nhà sử học Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Nhiều vấn đề lịch sử đã được nhìn nhận lại một cách khách quan, trung thực trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho công cuộc hiện đại hóa đất nước. Với những quan điểm và cách nhìn nhận mới, công cuộc tư bản hoá của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng đã được nhìn nhận lại. Những tác động tích cực và tiêu cực của công cuụoc này đã từng bước được các nhà nghiên cứu đánh giá một cách khách quan, trung thực hơn. Trên cơ sở đánh giá khách quan và toàn diện công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam chúng ta mới có thể lý giải và làm sáng tỏ được cơ sở lịch sử của một số hiện tượng và phong trào chính trị, một số trào lưu tư tưởng đã xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ này.

docx12 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4824 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động tích cực và hạn chế của công cuộc tư bản hóa của thực dân pháp ở Việt Nam từ 1858-1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG CUỘC TƯ BẢN HÓA CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM TỪ 1858-1945 A- MỞ ĐẦU Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam đã lùi xa vào dĩ vãng. Những ngày tháng chiến tranh khói lửa cũng đã qua đi, đất nước đẫ và đang được sống những ngày thanh bình, tươi đẹp. Cuộc sống mới đang cuốn con người vào vòng xoáy của những lo toan bận rộn nên không mấy ai có thời gian để ngồi ngẫm nghĩ lại những ngày tháng khốc liệt đã qua. Nhưng những nhà sử học thì luôn không ngừng tìm tòi, nghiên cứu và suy ngẫm để tìm ra những sự thật, để đưa Lịch sử ngày càng đến gần với thực tế hơn. Bởi hơn một nửa thế kỷ đã qua đi, song lịch sử vẫn để lại cho chúng ta những dấu hỏi về những ngày tháng cả dân tộc chìm đắm dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Tội ác của kẻ xâm lược, nhân loại đã được chứng kiến. Thắng lợi của nhân dân ta, lịch sử đã ghi công. Nhưng nhìn lại, chúng ta vẫn cần xem xét xem đằng sau những gì mà thực dân Pháp đã gây ra ấy liệu đất nước ta có chịu những tác động gì mang chiều hướng tích cực hay không? Trước đây, với cách nhìn nhận cũ, chúng ta vẫn chỉ thường xem xét cuộc chiến tranh ấy với những gì tiêu cực nhất. Nhưng kể từ sau sự nghiệp đổi mới của Đảng ta (1986), tư duy lịch sử của các nhà sử học Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Nhiều vấn đề lịch sử đã được nhìn nhận lại một cách khách quan, trung thực trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho công cuộc hiện đại hóa đất nước.  Với những quan điểm và cách nhìn nhận mới, công cuộc tư bản hoá của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng đã được nhìn nhận lại. Những tác động tích cực và tiêu cực của công cuụoc này đã từng bước được các nhà nghiên cứu đánh giá một cách khách quan, trung thực hơn.  Trên cơ sở đánh giá khách quan và toàn diện công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam chúng ta mới có thể lý giải và làm sáng tỏ được cơ sở lịch sử của một số hiện tượng và phong trào chính trị, một số trào lưu tư tưởng đã xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ này.  B - NỘI DUNG 1. Những nét cơ bản về Công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam 1.1.Khái niệm "tư bản hóa" Theo cách hiểu thông thường, thuật ngữ "tư bản hóa" được hiểu là sự du nhập những yếu tố của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào một xã hội có trình độ tổ chức kinh tế - xã hội thấp hơn.  Tuy nhiên trong bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trước làn sóng xâm lăng của các nước tư bản, điển hình là tư bản Pháp vào Việt Nam thì thuật ngữ "tư bản hóa" cần phải được tìm hiểu một cách cụ thể hơn. Thực tế lịch sử đã cho thấy kể từ khi thực dân Pháp nổ súng bắn vào Đà Nẵng (1858) cho đến khi hoàn thành quá trình xâm lược Việt Nam (1884) đã phải mất 26 năm. Nhưng thực dân Pháp cũng đã phải mất gần 15 năm để hoàn thành cái được gọi là "bình định" (1884-1897). Tổng cộng là 40 năm. Theo ý kiến của GS. Trần Văn Giàu thì "trong suốt thời gian 40 năm đó, mọi diễn biến tư tưởng lớn của dân tộc ta đều tuỳ thuộc nhiệm vụ bao trùm là đối phó với ngoại xâm nhằm bảo vệ độc lập, khôi phục chủ quyền như cũ" (Trần Văn Giàu (1977): Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Tập II. NXB KHXH, Hà Nội, trang 14). Như vậy có thể thấy rằng ngay cả công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng chịu tác động mạnh mẽ của nhiệm vụ bao trùm đó. Công cuộc tư bản hóa diễn ra trong bối cảnh lịch sử cả dân tộc đang gồng mình chống xâm lăng trước một kẻ thù hết sức "mới lạ", chưa từng gặp trong quá khứ, có trình độ tổ chức kinh tế - xã hội cao hơn. Điều đó nói lên rằng tinh thần dân tộc là một yếu tố rất quan trọng cần phải đề cập đến trong công cuộc tư bản hóa. Hay nói khác đi, "thù nhà nợ nước" được xem là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy tinh thần và ý chí đấu tranh của nhân dân ta. Có thể nói rằng trong điều kiện thực tế của giai đoạn lịch sử cận đại Việt Nam thì truyền thống yêu nước có tác dụng đặc biệt quan trọng. Chính yếu tố này đã góp phần quy định, chi phối đến công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam.  Sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay vào tiến hành khai thác trên quy mô lớn. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà chương trình khai thác có những trọng tâm khác nhau, vì thế nên tốc độ biến đổi của ngành kinh tế, của các lực lượng giai cấp cũng như toàn bộ cơ cấu kinh tế - xã hội cũng không giống nhau. Tìm hiểu về công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất là làm sáng tỏ thực trạng và sự biến đổi của cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam dưới thời thuộc địa. Từ đó, tiến hành xem xét, đánh giá những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của công cuộc tư bản hóa của CNTD Pháp trên đất nước ta trước đây. 1.2. Những nội dung cơ bản của công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam 1.2.1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử Bằng việc lần lượt kí 2 hiệp ước Harmand (1883) và Patenotre (1884), triều đình Huế đã đưa Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Với sự kiện này, thực dân Pháp đã hoàn thành giai đoạn thứ nhất của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Do vấp phải phong trào kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ của nhân dân ta mà thực dân Pháp buộc phải tiếp tục thực hiện công cuộc bình định đến gần 15 năm nữa. Đến năm 1897, sau khi các phong trào yêu nước bị đàn áp và tạm lắng xuống, thực dân Pháp mới tiến hành xây dựng bộ máy cai trị trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Cùng với việc xây dựng bộ máy cai trị mới, thực dân Pháp cũng bắt tay ngay vào thực hiện chương trình khai thác thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên, nông sản của Việt Nam nói riêng, cả Đông Dương nói chung. Một thể chế chính trị mới đã được hình thành: Liên bang Đông Dương được thành lập vào ngày 17-10-1887. Liên bang Đông Dương ban đầu mới chỉ có Việt Nam và Cao Miên, cho mãi đến năm 1899 (theo Sắc lệnh 19-4-1899 của Tổng thống Pháp) Lào mới sáp nhập vào Liên bang. Theo quy định của thực dân Pháp, Việt Nam bị chia thành 3 khu vực gọi là 3 kỳ với 3 thể chế chính trị khác nhau: Nam kỳ là đất "thuộc địa", Bắc kỳ là đất "nửa bảo hộ" và Trung kỳ là đất "bảo hộ". Với quy định này, tên nước ta cũng như Lào và Cao Miên bị mất tên trên bản đồ thế giới mà thay thế vào đó là sự ra đời của Liên bang Đông Dương. Từ 1894, 3 nước Đông Dương do Bộ Thuộc địa Pháp trực tiếp quản lí.  Việc thiết lập một thể chế chính trị mới đã cho thấy tham vọng của thực dân Pháp là từng bước thâu tóm mọi quyền lực trên toàn bộ lãnh thổ nước ta và điều đó cũng đồng nghĩa với việc thu hẹp phạm vi quyền lực của triều đình Huế và cuối cùng sự tồn tại đó chỉ còn là trên danh nghĩa. Quyền cai trị của người Pháp được thể hiện rõ nhất thông qua việc ban bố các chính sách nhằm mục tiêu trước hết là vì sự phát triển của nước Pháp. Chẳng hạn, trong lĩnh vực ngoại thương có chính sách thuế quan hay trong nông nghiệp, thực dân Pháp ra các Nghị định để bọn thực dân có quyền xin cấp một lần 500 ha đất đai để thành lập các đồn điền rộng lớn của người Pháp; trong hơn 80 năm đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã nhiều lần ban hành và điều chỉnh các hạng ngạch bậc viên chức cho phù hợp với từng thời kỳ nhất định, đồng thời bắt ép triều đình Huế phải ra các Đạo dụ nhằm từng bước thống nhất về hệ thống ngạch bậc viên chức và tước vị quan lại đang thực hiện mục tiêu củng cố chỗ dựa xã hội và đồng hóa dân tộc ta.  Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho tính chất xã hội Việt Nam thay đổi. Việt Nam vốn là một xã hội phong kiến lạc hậu nhưng độc lập thì nay lại là một nước bị đô hộ, bị chia cắt, một xã hội thuộc địa và nửa phong kiến. Hơn nữa, vào những năm cuối thế kỉ XIX, tình hình có những thay đổi lớn: năm 1895, nhà Thanh thừa nhận quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam; phe thực dân thắng thế hẳn ở Nghị viện Pháp; kháng chiến Cần Vương ở Trung, Bắc tàn lụi; nước Pháp lại đang tiến nhanh lên giai đoạn tư bản tài chính, tư bản độc quyền, nó mang tính "quan liêu" và "cho vay" rất nặng. Tất cả những gì mà thực dân Pháp làm vào lúc này là vì sự phát triển của nước Pháp.  Ngoài chính sách cai trị về chính trị, để phục vụ đắc lực cho công cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã thực hiện nhiều chính sách mới về văn hóa - giáo dục như cho mở trường học truyền bá chữ Pháp và chữ Quốc ngữ, hạn chế ảnh hưởng của chữ Hán, bước đầu du nhập văn minh phương Tây, hạn chế ảnh hưởng của Nho giáo trong nhân dân… Tất cả những điều đó đã góp phần làm cho "xã hội Việt Nam trước kia tĩnh tại bao nhiêu thì bây giờ lại xáo trộn bấy nhiêu, bị lay động đến tận nền tảng của nó" (Trần Văn Giàu (1977): Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Tập II. NXB KHXH, Hà Nội, trang 20). 1.2.2. Nội dung cơ bản của công cuộc tư bản hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Công cuộc tư bản hoá của thực dân Pháp ở Việt Nam trên thực tế đã có nhiều tác động đến mọi mặt của đất nước Việt Nam, đặc biệt nhất là nền kinh tế. Thực chất, đây là quá trình phá vỡ, thu hẹp của kết cấu và quan hệ cổ truyền đồng thời đi liền với nó là sự hình thành, xác lập và mở rộng của các yếu tố và quan hệ kinh tế, xã hội thuộc địa tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Xin được nêu ra đây những tác động cụ thể trên từng phương diện. Về nông nghiệp Một điều đặc biệt đáng chú ý trong giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, đó là tình trạng ruộng công (công điền công thổ) tăng lên một cách đáng kể. Bước sang đầu thế kỉ XX, trong khoảng thời gian từ 1900-1918, diện tích ruộng công tiếp tục chiếm tỷ lệ cao. Thực dân Pháp ngay khi đặt chân lên đất nướac ta đã tìm mọi cách để mở rộng diện tích, chiếm đất, lập đồn điền. Vì thế, diện tích ruộng đất canh tác tăng lên nhanh chóng. Cuối thế kỉ XIX, diện tích canh tác trong cả nước mới chỉ có 2.640.000 ha đến năm 1913 đã tăng lên 3.130.000 ha và khu vực tăng mạnh nhất là ở Nam kỳ. Vì thế, xuất hiện một bộ phận kinh tế mới mang tính chất tư bản chủ nghĩa, đó là kinh tế đồn điền.  Hai lĩnh vực được thực dân Pháp chú trọng nhất trong nông nghiệp là vơ vét xuất khẩu lúa gạo và kinh doanh đồn điền. Số lượng và diện tích đồn điền tăng lên nhanh chóng vào đầu thế kỉ XX. Cụ thể là ở Bắc kỳ năm 1907 có 244 đồn điền đến năm 1918 đã lên tới 476 đồn điền của người Pháp với diện tích là 416.650 ha; Năm 1900, diện tích đồn điền của người Pháp là 322.000 ha trong đó ở Nam kỳ là 78.000 ha chiếm 24,2%. Phương thức kinh doanh chủ yếu là phát canh thu tô. Cao su trở thành loại cây được trồng nhiều nhất nhằm đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp tại chính quốc. Ngoài ra các cây công nghiệp khác cũng được trồng trọt trong các đồn điền như cà phê, chè, mía…  Với sự xuất hiện và ngày càng lấn lướt của các loại cây công nghiệp thì tính chất độc canh của nền nông nghiệp Việt Nam đã dần mất đi. Thay vào đó là một nền nông nghiệp đa dạng hơn.  Sau cây lúa, ngô là loại cây lương thực cũng không kém phần quan trọng. Năm 1938, tổng sản lượng ngô của Đông Dương là 613.000 tấn nhưng dành cho xuất khẩu tới 557.000 tấn. Thị trường xuất khẩu ngô chủ yếu của Đông Dương là Pháp. Có thể nói, Đông Dương là nơi xuất khẩu ngô lớn nhất của châu Á và đứng hành thứ 4 thế giới về mặt này.  Có thể nhận thấy sự gia tăng các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu mà trước hết là lúa gạo và ngô một mặt góp phần đẩy mạnh sản xuấts phát triển, mặt khác chứng tỏ nền nông nghiệp Việt Nam đã dần dần thoát khỏi tính chất tự cung tự cấp để chuyển sang thời kỳ sản xuất có tính chất hàng hóa. Cơ cấu giống cây trồng trong nông nghiệp ở thời kỳ này cũng có nhiều đổi mới và phong phú hơn. Đồng thời, bắt đầu xuất hiện các nông cụ của phương Tây như cuốc, xẻng, xà beng… phục vụ cho việc khai phá đất đai ở các đồn điền. Công tác thủy nông cũng có nhiều tiến bộ.  Như vậy càn phải ghi nhận một điều rằng là kinh tế nông nghiệp Việt Nam cho đến nửa đầu thế kỷ XX đã mang một bộ mặt mới. . Về thủ công nghiệp Được xem là thế mạnh của Việt Nam,cho đến giữa thế kỉ XIX, thủ công truyền thống Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển qua nhiều thế kỉ. Với sự phát triển không ngừng của trình độ thủ công, dần dần một số nghề đã có xu hướng tách khỏi nông nghiệp, hình thành những làng nghề hay phố nghề như gốm Bát Tràng, dệt Vạn Phúc, La Khê (Hà Đông)… Những làng nghề này trải qua thời gian vẫn luôn khẳng định được sức sống mãnh liệt của mình. Tuy nhiên, khi thực dân Pháp xuất hiện trên đất nước ta thì thủ công nghiệp Việt Nam bắt đầu chịu sự tác động và chi phối của chiến tranh. Để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, triều Nguyễn rất quan tâm củng cố các xưởng đúc súng hay nói khác đi, các xưởng đúc súng đã có điều kiện phát triển.  Bên cạnh các xưởng thủ công do Nhà nước quản lý, một số xưởng thủ công tư nhân cũng có những biến động. Do tác động của chính sách vơ vét và xuất cảng lúa gạo của tư bản Pháp, các cơ sở chế biến gạo, nhất là ở Nam kỳ có cơ hội phát triển mạnh. Cùng với nghề xay xát lúa gạo, nghề gốm và nhất là nghề làm gạch ngói và các vật liệu xây dựng cũng có điều kiện mở mang hơn so với trước đây nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà cửa, dinh thự và các công trình công cộng của người Pháp. Nhìn chung, vào nửa sau thế kỉ XIX, nền thủ công nghiệp nước ta bắt đầu có những thay đổi do tác động của chiến tranh và các chính sách xâm lược của thực dân Pháp. Mặc dầu vậy, về cơ bản, cơ cấu, kỹ thuật và phương thức sản xuất, tiêu thụ vẫn giống như ở nửa đầu thế kỉ XIX. Những xưởng thủ công có quy mô lớn và có tính chất tiền tư bản chủ nghĩa chưa xuất hiện. Tuy nhiên, đây là thời kỳ trung gian, có ý nghĩa quan trọng để nền thủ công nghiệp truyền thống chuẩn bị bước sang một giai đoạn phát triển mới về cả ba phương diện: nguồn nguyên liệu, kỹ thuật sản xuất và thị trường tiêu thụ.  Sự mở rộng không ngừng của các đô thị đã làm cho nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thủ công không ngừng tăng lên. Nhờ đó các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển so với thời kỳ trước đó. Hơn nữa, với sự xuất hiện các phương tiện kỹ thuật máy móc… đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Số lượng các ngành nghề cũng như số thợ thủ công không ngừng tăng lên. Theo ước tính của P. Gourou, trong thời kỳ này đã tồn tại khoảng 108 nghề thủ công khác nhau. Về mặt kỹ thuật và công cụ sản xuất cũng có nhiều cải tiến. Trong quan hệ giữa chủ và thợ thủ công cũng có những chuyển biến nhất định. Vào những năm 30, 40 trong một số nghề như làm đồ gốm, dệt vải… đã xuất hiện xu hướng tập trung thành các trung tâm có quy mô lớn hơn. Nhiều xưởng thủ công đã sử dụng hàng chục, thậm chí hàng trăm thợ làm việc. Đây là những biểu hiện chuyển biến của thủ công nghiệp thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Và chính sự tồn tại và phát triển của nền thủ công nghiệp thời kỳ này đã tạo ra những tiền đề cần thiết để hình thành nền công nghiệp dân tộc. Cũng từ đó mà giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam vừa ra đời còn nhỏ bé, non yếu đã từng bước được củng cố, trưởng thành hơn.  Về công nghiệp Trong quá trình xâm lược Việt Nam, để tạo điều kiện cho công cuộc xâm lược, thực dân Pháp đã cho xây dựng một số cơ sở công nghiệp chế biến, sữa chữa tàu, mở các công trường khai thác mỏ. Song số vốn và quy mô hoạt động của các cơ sở kỹ nghệ này vào cuối thế kỉ XIX còn rất nhỏ bé. Sang đầu thế kỉ XX, do nhu cầu của công cuộc khai thác thuộc địa cũng như để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng trong nước, thực dân Pháp đã buộc phải cho mở một số ngành kỹ nghệ, chủ yếu là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến. Hàng loạt các cơ sở kinh tế, nhà máy, xí nghiệp của tư bản Pháp đã được thành lập. Năm 1903 mới chỉ có 82 nhà máy nhưng đến năm 1906 đã có tới 200 nhà máy, xí nghiệp. Trong các ngành công nghiệp xuất hiện ở Việt Nam hồi đầu thế kỉ XX, khai mỏ vẫn là ngành được tư bản Pháp đặc biệt coi trọng.  Trong công nghiệp, Pháp tập trung chủ yếu vào hai nghành chính là khai mỏ và công nghiệp chế biến. Một số cơ sở công nghiệp cơ khí và luyện kim cũng đã xuất hiện dưới hình thức các công trường xây dựng đường sắt và đóng tàu, các nhà máy điện và tàu điện, nhà máy in ở các thành phố lớn. Một nền công nghiệp thuộc địa đã ra đời và ngày càng mở rộng vai trò của mình trong nền kinh tế Việt Nam.  Có thể thấy rằng trong giai đoạn 1919-1945, số vốn đầu tư trong công nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng tương đối lớn, với khoảng trên 1/3 tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên một điểm đáng lưu ý là đối với các ngành công nghiệp Việt Nam, chính sách chung của thực dân Pháp vẫn là hạn chế phát triển, đặc biệt là công nghiệp nặng để tránh cạnh tranh với công nghiệp chính quốc. Vì thế cơ cấu nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ này vẫn chủ yếu bao gồm công nghiệp mỏ, công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ.  Ngành khai mỏ phát triển mạnh về quy mô và số lượng khai thác. Trong đó, Bắc kỳ vẫn là nơi tập trung các hoạt động đầu tư khai thác của ngành than ở Việt Nam và Đông Dương; năm 1923, Bắc kỳ cung cấp 99% sản lượng than của Đông Dương. Kỹ thuật khai thác khoáng sản vào thời kỳ này cũng có nhiều tiến bộ hơn. Riêng ngành than đến năm 1936-1937 đã được trang bị 177 máy phá khoáng các loại. Tuy nhiên, tất cả các khâu sản xuất bằng máy móc (có tính chất cơ khí hóa) cũng chỉ chiếm khoảng 6% tổng sản lượng khai thác. Chủ trương chung của thực dân Pháp là không mở mang công nghiệp nặng ở Việt Nam nhưng để phục vụ các hoạt động khai thác khoáng sản chúng đã cho xây dựng một vài cơ sở chế biến quặng, lò đúc kim loại kẽm, sắt, thiếc… Tuy vậy, trong cả nước không có bất kỳ một nhà máy luyện kim hay chế tạo máy móc nào; ngành công nghiệp nặng hầu như không tồn tại.  Ngoài khai mỏ, các ngành công nhiệp nhẹ và công nghiệp chế biến có nhiều điều kiện phát triển. Hầu hết các cơ sở công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến đều được bổ sung thêm vốn sản xuất. Ngành công nghiệp chế biến nông sản cũng được mở rộng hơn với các cơ sở xay xát gạo, làm đường mật, ép dầu. Vào giữa những năm 1930, riêng ở Sài Gòn đã có khoảng 20 nhà máy xay xát lớn. Ở Bắc kỳ, các nhà máy rượu Hà Nội, Hải Dương, Nam Định lần lượt ra đời. Ngoài ra, còn có nhà máy làm diêm ở Thanh Hóa, Bến Thủy, Hà Nội… Cùng với các ngành công nghiệp chính, thực dân Pháp còn chú ý phát triển một số lĩnh vực kỹ nghệ có khả năng phục vụ đắc lực cho các nhu cầu cấp bách trước mắt của chính quyền thuộc địa như ngành in, sản xuất gạch ngói, thủy tinh… Như vậy, cho đến trước năm 1945, cơ cấu một nền công nghiệp thuộc địa đã được xác lập và ngày càng hoàn chỉnh, với hai bộ phận chính là công nghiệp mỏ và công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp luyện kim, hóa chất, cơ khí hầu như không được đầu tư xây dựng. Mặc dầu vậy, sự hiện diện của các ngành công nghiệp nói trên đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền công nghiệp dân tộc Việt Nam, đưa Việt Nam tiếp cận trình độ kỹ nghệ của chủ nghĩa tư bản phương Tây. .Về giao thông vận tải Để tạo điều kiện cho việc khai thác, thực dân Pháp còn quan tâm đến việc mở rộng hệ thống giao thông vận tải . Nhờ vậy mà giao thông ở Việt Nam đầu thế kỉ XX có bước phát triển vượt bậc. Nhiều tuyến giao thông mới được đưa vào xây dựng và khai thác, góp phần tạo nên một mạng lưới giao thông đồng bộ, hiện đại và hết sức tiện lợi so với trước kia.  Đường sắt: Là hệ thống đường giao thông hiện đại, lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX, đường sắt đã nhanh chóng thể hiện vai trò to lớn của mình trong việc vận chuyển và lưu thông hàng hoá. Hai tuyến đường được khởi công xây dựng sớm nhất là tuyến Sài Gòn - Mĩ Tho (1881-1883) và Hà Nội - Đồng Đăng (1890-1902). Hệ thống đường sắt được xây dựng nhằm đối phó với cuộc nổi dậy của nhân dân ở các địa phương đồng thời phục vụ đắc lực cho hoạt động khai thác và bóc lột về kinh tế. Có thể nói, phần lớn chiều dài đường sắt bao gồm các tuyến đường chính đã được xây dựng vào 15 năm đầu thế kỉ XX. Sự xuất hiện của hệ thống đường sắt là một nét mới, một bước tiến trong quá trình hiện đại hóa và hoàn chỉnh mạng lưới giao thông ở Việt Nam. Tính đến tháng 10-1936, trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam đã có 2600km đường xe lửa. So với thời kỳ 1900-1919, số lượng đầu toa xe cũng tăng lên gần gấp đôi.  Đường bộ: Không hiện đại như đường sắt, song hệ thống đường bộ, nhất là những tuyến đường huyết mạch xuyên Việt vẫn được gấp rút đầu tư xây dựng. Đến trước chiến tranh thế giới thứ n