Tiết kiệm năng lượng
Về mặt năng lượng thuần túy
- Sản xuất giấy tái chế (từ giấy đã qua sử dụng làm từ bột hóa) dùng năng lượng
mua ngoài nhiều hơn một chút so với sản xuất giấy từ gỗ (sản xuất bột sản
xuất giấy) vì các chất thải trong quá trình sản xuất bột sẽ được đốt thu hồi hóa
chất và nhiệt (nhiệt này dùng lại cho quá trình sản xuất bột và giấy).
- Sản xuất giấy tái chế (từ giấy đã qua sử dụng làm từ bột cơ) dùng năng lượng
mua ngoài ít hơn nhiều so với sản xuất giấy nguyên thủy (bột cơ) (trong quá
trình sản xuất bột cơ không thể thu hồi được nhiệt)
11 trang |
Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tái chế giấy ở các nước trong khu vực và ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 1 / 11
Bài phát biểu trong Hội thảo ”Tái chế giấy và bao bì giấy”
tại TP.HCM ngày 03/12/2009
do Tiến sĩ Vũ Ngọc Bảo cung cấp cho văn phòng Hiệp Hội Bao Bì Việt Nam
TÁI CHẾ GIẤY Ở CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
VÀ Ở VIỆT NAM
LỢI ÍCH TÁI CHẾ GIẤY
Có nhiều, nhưng quan trọng nhất là:
Tiết kiệm năng lượng
Về mặt năng lượng thuần túy
- Sản xuất giấy tái chế (từ giấy đã qua sử dụng làm từ bột hóa) dùng năng lượng
mua ngoài nhiều hơn một chút so với sản xuất giấy từ gỗ (sản xuất bột sản
xuất giấy) vì các chất thải trong quá trình sản xuất bột sẽ được đốt thu hồi hóa
chất và nhiệt (nhiệt này dùng lại cho quá trình sản xuất bột và giấy).
- Sản xuất giấy tái chế (từ giấy đã qua sử dụng làm từ bột cơ) dùng năng lượng
mua ngoài ít hơn nhiều so với sản xuất giấy nguyên thủy (bột cơ) (trong quá
trình sản xuất bột cơ không thể thu hồi được nhiệt)
Về mặt nguồn gốc năng lượng trong sản xuất bột & giấy
- Trong sản xuất giấy nguyên thủy (bột hóa), phần lớn năng lượng cần dùng là
do đốt dịch đen (các thành phần của gỗ còn lại sau khi xơ sợi được lấy đi). Về
bản chất đó là gỗ. Đốt gỗ hay nhiên liệu khác (than đá, dầu mỏ) để lấy năng
lượng cũng tạo ra khí gây ô nhiễm.
- Tuy nhiên các nhiên liệu khác không thể tái sinh, còn gỗ có thể trồng lại. Lấy
vòng đời làm cơ sở để cân nhắc các nguồn nhiên liệu, dù sản xuất giấy tái chế
dùng nhiều nhiên liệu hơn sản xuất giấy nguyên thủy, thì sản xuất giấy tái chế
tạo ra ít khí nhà kính hơn sản xuất giấy nguyên thuỷ.
Thực tế là các nhà máy giấy được đặt gần rừng và xa nguồn giấy thải, vậy phải
đánh giá năng lượng cần để vận chuyển giấy thải tới nhà máy ra sao?
- Phân tích vòng đời cho thấy dù có tính cả năng lượng dùng để thu gom, vận
chuyển và tái chế giấy thì sản xuất giấy tái chế dùng ít năng lượng hơn sản
xuất giấy nguyên thủy. Đó là vì năng lượng cần để thu lại giấy đã dùng và đưa
trở lại nhà máy là quá nhỏ so với năng lượng tiết kiệm được khi dùng giấy thải
thay cho việc dùng gỗ để sản xuất tờ giấy mới.
- Sản xuất giấy nguyên thủy cũng cần năng lượng để chặt, thu gom và vận
chuyển cây gỗ đến nhà máy Dù khoảng cách có thể ngắn hơn nhưng rõ ràng có
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 2 / 11
khác biệt lớn khi so sánh việc chặt và vận chuyển 2,2 – 4,4 tấn gỗ cho mỗi tấn
bột giấy so với vận chuyển 1,4 tấn giấy thải cho sản xuất 1 tấn bột tái chế.
Bảo vệ môi trường
- Bảo tồn rừng tự nhiên.
Việc tái sử dụng giấy làm giảm tổng lượng gỗ phải chặt hạ để sản xuất bột giấy
và giảm toàn bộ nhu cầu về gỗ. Nhưng điều quan trọng hơn là tái chế giấy giữ
lại được rừng và giảm áp lực chuyển đổi rừng tự nhiên và các khu vực nhậy
cảm về sinh thái như đầm lầy thành rừng sản xuất. Việc tái chế lại giấy giúp
nhân loại giữ gìn toàn bộ giá trị mà hệ thống sinh thái rừng cung cấp bao gồm
nước sạch, môi trường sống của muông thú và tính đa dạng sinh học.
Đúng là ngành công nghiệp giấy trồng lại nhiều rừng hơn rừng họ đã khai
thác, nhưng rừng trồng lại không phải là rừng bảo tồn. Nhu cầu giấy tăng đã
kích động sự chuyển đổi nhanh rừng tự nhiên thành rừng sản xuất. Ở Bắc Mỹ,
nơi phần lớn gỗ có thể dùng để sản xuất giấy, diện tích rừng lá kim tự nhiên
giảm từ khoảng 72 triệu ha năm 1953 xuống còn 33 triệu ha năm 1999. Trong
cùng thời gian, rừng sản xuất cây lá kim được trồng tăng từ 2 triệu ha lên 32
triệu ha và dự kiến sẽ đạt 54 triệu ha vào 2040, gây tổn thất một lượng lớn
rừng tự nhiên. Tuy cây lá kim ở rừng trồng lớn nhanh, nhưng không thể cung
cấp nơi sống hoang dã cho muông thú và bảo tồn tính đa dạng sinh học như
rừng tự nhiên. Tích cực tái sử dụng xơ sợi, tái chế giấy có thể giúp làm giảm áp
lực chuyển đổi rừng tự nhiên còn lại thành các đồn điền.
Thứ nhất, trồng và khai thác gỗ có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không
thể tái sinh - tức là rừng tự nhiên. Như đã đề cập, tăng cường trồng rừng để
dùng làm nguyên liệu giấy bao gồm cả phần gỗ sẽ nằm trong giấy và phần làm
chất đốt có thể ảnh hưởng bất lợi đến chất lượng nước, tính đa dạng sinh học,
môi trường sống của động thực vật hoang dã và tính toàn vẹn của hệ thống
sinh thái rừng tự nhiên. Vì thế trong khi tăng cường trồng rừng có thể phục
hồi nhiều cánh rừng, nhưng không thể phục hồi được rất nhiều giá trị sinh
thái của rừng tự nhiên.
- Giảm lượng phát thải CO2.
Nếu quan tâm đến sự thay đổi khí hậu, thỉ ta cần rừng già chứ không phải
rừng non. Trong khi cây ít tuổi hơn có thể hấp thụ các bon nhanh hơn, thì cây
già hơn tồn trữ rất nhiều các bon, nhờ đó làm giảm sự tập trung của khí nhà
kính trong khí quyển. Hơn nữa mỗi khi cây đựoc chặt hạ để dùng làm giấy, các
bon mà cây tồn trữ sẽ được giải thoát. Giảm nhu cầu bột nguyên thủy bằng
việc tái chế lại giấy làm giảm tần suất chặt hạ gỗ để làm giấy và tăng tổng
lượng các bon tồn trữ trong rừng. Việc tái chế cũng giúp bảo trì lượng các bon
trữ trong tờ giấy bằng cách sử dụng lại giấy nhiều lần, thay vì để chúng phân
hủy trong đất và tạo ra mê tan, một thành phần độc của khí nhà kính.
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 3 / 11
Tái chế giấy nghĩa là giảm đi lượng giấy chôn lấp hay phải đốt bỏ. Điều này
làm giảm ô nhiễm không khí và nước, cũng như khí nhà kính thoát ra khi giấy
phân huỷ ở bãi chôn lấp. Khí nhà kính thoát ra từ bãi chôn lấp gồm mê tan và CO2. Methan là loại khí có năng lực bẫy nhiệt gấp 21 lần CO2, là một loại khí
nhà kính mạnh và góp phần làm thay đổi khí hậu toàn cầu. Tổ chức môi
trường EPA của Mỹ đã coi các bãi chôn lấp rác là nguồn thoát khí methan lớn
ra ngoài khí quyển và coi việc phân huỷ giấy là một nguồn quan trọng nhất
của khí methan ở bãi rác.
Cuối cùng bằng cách giảm lượng giấy cần chôn lấp, tái chế giúp ta tránh được
khí methan và các chất ô nhiễm khác và làm giảm nhu cầu cần tăng thêm bãi
chôn rác.
Bên cạnh việc giảm phát thải khí nhà kính, tái chế giấy đã qua sử dụng có thể
cắt giảm sự phát sinh của các khí độc khác như ô xít ni tơ (tạo nên sương
khói) và các chất hạt (sinh ra các bệnh về đường hô hấp). - Giảm được chất thải rắn
Mỗi khi giấy đã dùng được tách ra khỏi rác và dùng làm giấy tái chế, thì đó đã
là sự giảm thiểu trực tiếp chất thải rắn. Ta hãy nghĩ như thế này - nếu ta dùng
một mẩu giấy một lần, rồi ta tẩy đi và dùng lại lần nữa trước khi vứt đi, ta đã
sinh ra ít chất thải hơn khi dùng 2 tờ giấy và rồi ném cả hai tờ giấy đi. Tương
tự như vậy ngay cả khi giấy tái chế cuối cùng cũng được chôn lấp thì quá trình
tái chế cũng vẫn làm giảm lượng giấy chôn lấp. Giảm chất thải rắn cũng có
nghĩa là giảm đất chôn lấp.
- Lượng nước thải giảm và chất lượng nước thải được cải thiện.
Lượng nước thải là một sự đo lường có ý nghĩa về môi trường, nó cho ta cả hai
chỉ số lượng nước mới cần dùng trong sản xuất và mức độ ảnh hưởng của
nước thải ra môi trường – vì thế nó thường được quy định chặt chẽ. Lấy đi và
đổ vào sông suối một lượng nước lớn có thể có ảnh hưởng lớn đến sinh thái
nhất là trong kỳ khô kiệt hoặc hạn hán. Và nước đã xử lý cũng còn các độc tố
của quá trình sản xuất. Trên cơ sở so sánh, ta thấy nhìn chung sản xuất giấy từ
bột nguyên cần nhiều và thải nhiều nước hơn và nước thải chứa nhiều độc tố
hơn sản xuất giấy từ giấy loại.
- Bùn từ các nhà máy sản xuất giấy tái chế
Nhà máy dùng giấy loại để sản xuất giấy sinh ra nhiều chất thải rắn hơn, phần
lớn ở dạng bùn so với nhà máy sản xuất giấy từ bột nguyên nhưng bùn này
cũng nằm trong giấy loại nếu ta chôn nó. Như vậy về thực chất bùn không phải
là yếu tố để so sánh lợi hại. Hiện nay có nhiều cách sử dụng bùn này, dùng để
đốt trong nồi hơi, làm phân vi sinh...
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 4 / 11
Lợi ích kinh tế
Giấy có thể tái chế tới 6 lần trước khi chôn lấp hoặc đốt bỏ. Nên lợi ích về tiết
kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường là rất to lớn, có thể nói lớn hơn nhiều
so với lợi ích kinh tế thuần túy.
Tuy nhiên lợi ích kinh tế của việc tái chế giấy ngày càng tăng khi công nghệ
sản xuất giấy tái chế ngày càng được cải tiến và hoàn thiện. Xơ sợi tái chế
không chỉ dùng để sản xuất giấy làm bao bì, giấy in báo, giấy tissue mà còn
dùng để pha trộn với bột nguyên thủy với một tỉ lệ ngày càng cao trong sản
xuất giấy cao cấp hơn. Có thể nói xơ sợi tái chế ngày nay có thể có mặt trong
hầu hết các loại giấy thương mại. Chi phí sản xuất giấy tái chế ngày một giảm
và chất lượng xơ sợi tái chế ngày càng tăng nhờ ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất dù thị trường ngày càng yêu cầu giấy có độ bền cao hơn (phù hợp với
tốc độ in, hòm hộp các tông mỏng hơn nhưng chịu tải cao hơn), chất lượng bề
mặt cao hơn
TÁI CHẾ GIẤY Ở CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
Trung quốc (2007):
Nhập khẩu giấy thu hồi từ Mỹ: 43%. từ Nhật: 18%, từ Anh: 9%...Hiệu suất tái
chế giấy: 62%.
Theo báo cáo của Hiệp hội Giấy Trung Quốc tại Hội nghị Giấy Châu Á (15-
17/10/2008) tại Osaka, Nhật Bản thì thu gom giấy đã qua sử dụng chưa trở
thành một ngành công nghiệp vì nhận thức của xã hội chưa cao, các doanh
nghiệp tái chế phần lớn là doanh nghiệp quy mô nhỏ, kỹ thuật lạc hậu. Để thực
hiện chính sách phát triển ngành giấy Trung Quốc, một chính sách về thu gom
và tái chế giấy thu hồi chuẩn bị được ban hành đề cập toàn diện vấn đề từ giáo
dục cộng đồng, những quy định kỹ thuật, thị trường và công cụ tài chính để
khuyến khích và phát triển công nghiệp tái chế giấy.
Chính sách phát triển ngành giấy Trung Quốc do Ủy ban Phát triển và Cải cách
Trung Quốc ban hành tháng 10, 2007 trong Điều 17 nêu rõ: “Phải tăng cường
Công nghiệp giấy Trung Quốc - 2007 Sản xuất Xuất khẩu Nhập khẩu Tiêu dùng
Bột 19,070 84 8,449 27,435
Giấy 73,500 4,610 4,010 72,900
Giấy thu hồi 27,650 1,000 22,560 50,210
Đơn vị: 1.000 tấn
Tỉ lệ giấy thu hồi trong tổng nguyên liệu dùng sản xuất giấy: 65%
Tỉ lệ thu hồi giấy đã qua sử dụng: 38%
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 5 / 11
tái chế giấy loại . Phải tăng tỉ lệ thu hồi và tái sử dụng giấy loạ i. Phải sử dụng
hợp lý giấy thu hồi nhập khẩu . Phải nhanh chóng soạn thảo tiêu chuẩn giấy
thu hồi. Khuyến khích chính quyền địa phương đưa ra những biện pháp quản
lý việc tái chế giấy thu hồi . Phải hỗ trợ các xí nghiệp thu gom giấy thu hồi quy
mô lớn: thiết lập thị trường mua bán giấy thu hồi và làm cho việc thu hồi giấy
đã qua sử dụng thành việc làm thông thường của xã hội. Tăng tỉ lệ giấy thu hồi
ở Trung Quốc từ 31% hiện nay lên 34% vào năm 2010. Tỉ lệ tái sử dụng giấy
cũng tăng lên từ 32% hiện nay lên 38% vào năm 2010.”
Tuy nhiên sau kết quả khích lệ năm 2007, nay mục tiêu của ngành giấy Trung
Quốc đã cao hơn , đến 2010 tỉ lệ thu hồi là 40% với hiệu suất 63% và năm
2015, tỉ lệ thu hồi là 45% và hiệu suất đạt 65%.
Nhật Bản (2007)
Hiệu suất tái chế giấy (chung) là 61,4% năm 2007 và công nghiệp giấy Nhật
Bản đặt mục tiêu đạt hiệu suất này ở mức 62% vào năm 2010.
80% xuất khẩu giấy đã qua sử dụng của Nhật Bản là vào Trung Quốc..
Các nhà sản xuất giấy Nhật Bản nõ lực xây dựng thị trường ở nước ngoài vì thị
trường trong nước đã bão hòa.
Công nghiệp giấy Nhật Bản - 2007 Sản xuất Xuất khẩu Nhập khẩu Tiêu dùng
Bột 10,894 210 2,097 12,781
Giấy 31,266 1,385 1,374 31,255
Giấy thu hồi 23,041 3,844 67 19,264
Đơn vị: 1.000 tấn
Tỉ lệ giấy thu hồi trong tổng nguyên liệu dùng sản xuất giấy: 60%
Tỉ lệ thu hồi giấy đã qua sử dụng: 74%
Gia đình
Lượng giấy thải nhỏ:
khu dân cư, buôn bán,
sân vận động, cửa
hàng
Thu gom tại các trường
học, dân phố
Thu gom của các tổ
chức của chính quyền
Thu gom của đại lý bán
báo
Thương nhân mua gom
Người buôn giấy loại
Đại lý trung gian
Người thu gom đặc
chủng
N
h
à
bá
n
b
u
ôn
g
iấ
y
lo
ại
N
h
à
m
áy
s
ản
x
u
ất
g
iấ
y
Lượng giấy thải lớn:
nhà máy sản xuất bao
bì, cửa hàng lớn, siêu
thị, nhà máy in, nhà
xuất bản..
Sơ đồ chính thu gom và phân phối giấy đã qua sử dụng ở Nhật Bản
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 6 / 11
Đài Loan (2007): 70% sản lượng giấy của Đài Loan năm 2007 là giấy làm bao
bì, vì vậy Đài Loan sử dụng tới 73% giấy đã qua sử dụng làm nguyên liệu sản
xuất (4,412 triệu tấn), trong đó hòm hộp các tông cũ – OCC là chính và cũng vì
vậy hiệu suất tái chế giấy đạt tới 88%.
Thu gom giấy đã qua sử dụng ở trong nước đạt 3,2 triệu tấn/năm, giảm phát
thải tương đương 3 triệu tấn các bon dioxit.
Hàn Quốc
Hàn Quốc coi giấy đã qua sử dụng là nguyên liệu chính sản xuât giấy, năm
2007 chiếm 76% trong tất cả các loại nguyên liệu, tức 9,147 triệu tấn (61% là
hòm hộp các tông cũ – OCC, 25% là giấy báo cũ – ONP). Giấy đã qua sử dụng
thu gom trong nước năm 2007 đạt 8 triệu tấn, nhập khẩu đạt 1,149 triệu tấn.
Tiêu dùng giấy năm 2007: 11,871 triệu tấn, tỉ lệ thu hồi giấy đã qua sử dụng là
67%
Các nước khác
HÀN QUỐC - NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT GIẤY 2000 2005 2006 2007
Giấy loại 7.118 8.501 8.667 9.147 (73%) (74%) (75) (76%) Thu gom 5.003 7.086 7.455 7.998 Nhập 2.115 1.415 1.212 1.149
Bột 2.682 2.930 2.917 2.943 (27%) (26%) (25%) (24%) Nội địa 595 514 500 425 Nhập 2.087 2.416 2.417 2.518
Tổng cộng 9.800 11.431 11.584 12.090 100% 100% 100% 100% Nội địa 5.598 7.600 7.955 8.423 Nhập 4.202 3.831 3.629 3.667
Đơn vị: 1.000 tấn. Số trong ngoặc là tỉ lệ so với tổng nguyên liệu sử dụng.
Sản xuất Xuất khẩu Nhập khẩu Tiêu dùng %(1) Tỉ lệ thu hồi
Malaysia 87% 61%
Bột 122 0 118 240
Giấy 1,465 254 1,589 2,800
Giấy thu hồi 1,420 0 189 1,609
Philippines 79% 44%
Bột 173 0 50 223
Giấy 1,082 165 694 1,611
Giấy thu hồi 702 21 178 859
Thái Lan 72% 65%
Bột 1,169 293 520 1,396
Giấy 4,516 1,164 716 4,068
Giấy thu hồi 2,650 14 1,016 3,662
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 7 / 11
TÁI CHẾ GIẤY Ở VIỆT NAM
- Nguồn giấy đã qua sử dung : Hộ gia đình; các trường học; văn phòng các tổ
chức, công ty; nhà máy (in, bao bì); siêu thị, cửa hàng; nhà ga, bến xe, sân
bay - Những loại giấy không thể tái chế: giấy cảm nhiệt; giấy (tự) dính, băng keo;
giấy trong suốt (để thuyết trình ); giấy các bon ; giấy bóng kính ; giấy phủ
chất dẻo hay sáp (hộp đựng sữa, nước giải khát; giấy gói kẹo; giấy gói ngoài
ram giấy photocopy; hộp đựng cơm trưa, cốc và đĩa giấy; giấy lau, khăn lau
đã dùng; giấy đựng sơn, hóa chất, thực phẩm - Thu gom giấy đã qua sử dụng ở trong nước . Về tổ chức thu gom bao gồm :
đồng nát (người thu gom riêng lẻ lùng sục từng ngõ ngách , các công ty vệ
sinh, những người bới rác, các trạm thu mua trung gian. Hiện chưa có công
ty chuyên doanh giấy thu hồi.
Tỉ lệ giấy đã sử dụng thu hồi được so với tổng lượng giấy tiêu dùng ít thay
đổi, chỉ ở mức 24-25% và tỉ lệ giấy thu hồi trong nước so với giấy thu hồi
nhập khẩu hầu như không thay đổi từ 48% (1999) lên 50% (2007). Như
vậy rõ ràng công tác thu hồi giấy trong nước không có tiến triển từ khi thực
hiện thuế GTGT . Nguyên nhân chủ yếu là do cách hợp thức hóa trong chi
phí sản xuất đối với việc mua giấy loại thu gom trong nước phức tạp , rối
rắm, chỉ những cơ sở sản xuất quy mô nhỏ có thể chấp nhận được . Các cơ
sở sản xuất quy mô lớn thà mua giấy thu hồi nhập khẩu , dù đắt cũng đem
Đơn vị: 1.000 tấn
(1) Tỉ lệ giấy thu hồi trong tổng nguyên liệu dùng sản xuất giấy
Công ty môi trường
Hộ gia đình
Đồng nát
Nhà máy in, bao bì
Văn phòng, công sở
Giấy loại từ siêu thị
Nhặt rác tại bãi chôn lấp
Trường phổ thông
Công nhân vệ sinh
N
h
à
m
á
y
g
iấ
y
Thu gom cấp I, II
Sơ đồ thu gom giấy đã sử dụng tại Việt Nam
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 8 / 11
lại hiệu quả cao hơn về thời gian và chi phí (vì có hóa đơn GTGT khi nhập
hàng). - Nhập khẩu:
Giấy thu hồi nhập khẩu vào Việt Nam từ nhiều nước , nhưng chủ yếu từ Mỹ ,
Nhật Bản, New Zealand. Những loại chính được nhập khẩu : giấy hòm hộp các
tông cũ (OCC), giấy báo cũ (ONP), tạp chí cũ (OMG), giấy lề (dẻo giấy, lề giấy –
phế thải trong gia công), giấy đứt, giấy trộn lẫn.
Lý do nhập khẩu : chất lượng giấy thu hồi nhập khẩu cao hơn giấy thu hồi
trong nước, không vướng thủ tục hợp thức hóa chi phí sản xuất , chất lượng &
số lượng ổn định, do giá không cao hơn trong nước nhiều.
Nhìn chung, không có vướng mắc lớn khi nhập khẩu. Sự chưa thống nhất giữa
hải quan và đơn vị nhập khẩu lớn nhất là trong việc định nơi dỡ hàng để kiểm
tra chất lượng . Thường thì Hải quan yêu cầu kiểm tra ngay tại cảng và điều
này doanh nghiệp sợ nhất, vì chi phí dỡ hàng rồi lại xếp hàng vào container rất
cao. Cũng thường xảy ra việc không thống nhất giữa Hải quan và doanh nghiệp
về lượng tạp chất được phép Khi đó buộc phải dỡ hàng , lấy mẫu, giám định,
chờ kết quảNhững rắc rối này làm nản lòng doanh nghiệp . Về nguyên tắc, do
giá trị 01 container giấy thu hồi nhập khẩu rất thấp , thường 3.000 – 5.000
USD/container, nếu rắc rối xảy ra tại cảng nhập thì chi phí xử lý từ 15-35% giá
trị lô hàng, nên không doanh nghiệp nào dám nhập hàng không đạt TCVN . Hai
vướng mắc trên, xử lý tình thế vừa khó lại vừa dễ, tùy nơi, tùy lúc.
Tỉ lệ giấy thu gom trong nước trong tổng lượng giấy thu hồi sử dụng đã tăng
từ 48% (1999) lên 50% (2007). Như vậy giấy thu hồi nhập khẩu là nguồn
nguyên liệu chính trong sản xuất giấy ở Việt Nam. - Chất lượng và Tiêu chuẩn
Các nước đều có tiêu chuẩn về giấy loại , chủ yếu dùng trong giao dịch thương
mại (phục vụ mục đích tái chế) và ngăn cản chất thải không thể tái chế, gây hại
xâm nhập từ nước ngoài . Việt Nam cũng đã có TCVN -2007. Phần lớn tiêu
chuẩn giấy thu gom của các nước đều tương đồng và thịnh hành nhất là Tiêu
chuẩn Mỹ (nước xuất khẩu giấy thu gom lớn nhất thế giới ), của EU và Nhật
Bản.
Giấy thu gom có chất lượng cao nhất là của đồng nát (được phân loại: bao bì,
giấy báo cũ, tạp chí; có thể được loại bỏ tạp chất : băng dính, đinh ghim, nhãn
HỘI NGHỊ TÁI CHẾ GIẤY – TP. HỒ CHÍ MINH, HÀ NỘI (3-4/12/2009) Trang 9 / 11
chất dẻo) và giấy thu gom từ các trường học (tốt nhất từ tr ường Tiểu học),
văn phòng . Giấy loại thu gom từ các bãi rác không đáng kể về lượng , chất
lượng thấp nhất , thường dính bẩn (thực phẩm, đất cát) và không được các
nhà máy giấy ưa thích . Giấy thu hồi phần lớn để rời hoặ c buộc dây, ở một vài
trạm thu gom có thiết bị để đóng bành , thuận tiện cho vận chuyển . Giấy thu
gom trong nước được chia thành : bao bì , giấy báo cũ , tạp chí , sách, và linh
tinh. Tuy nhiên chất lượng giấy thu gom trong nước thấp hơn giấy thu hồi
nhập khẩu, vì giấy thu hồi trong nước đã qua nhiều lần tái chế , trong khi giấy
nhập khẩu phần lớn làm từ bột nguyên khai. - Sử dụng giấy thu hồi để sản xuất giấy
Giấy thu hồi (thu gom trong nước và nhập khẩu) chiếm tới 70% tổng
lượng nguyên liệu dùng để sản xuất giấy ở Việt Nam. Đây là tỉ lệ thấp
nhất trong ASEAN (cao nhất là ở Malaysia: 87%).
Tỉ lệ thu hồi giấy đã qua sử dụng ở Việt Nam cũng thuộc loại thấp nhất,
chỉ đạt 25% (Thái Lan 65%)
Giấy thu hồi dùng để sản xuất 100% giấy làm bao bì (một vài công ty sử
dụng thêm bột nguyên khai để nâng cao độ bền của giấy dùng làm bao xi
măng), 90% giấy tissue, 60% giấy in báo.
Hầu như chưa sử dụng giấy thu hồi trong sản xuất giấy in viết chất
lượng cao.
Các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ chủ yếu sử dụng giấy loại thu gom trong
nước (85%) vì sản xuất sản phẩm thấp cấp . Các cơ sở quy mô trung
bình và lớn chủ yếu sử dụng giấy thu hồi nhập khẩu để sản xuất sản
phẩm chất lượng cao hơn.
Từ năm 2000 đến nay nhiều dây chuyền hiện đại, đồng bộ sản xuất bột
từ giấy thu hồi được lắp đặt ở Việt Nam (160.000 tấn/năm). Năm 2009
sẽ đưa vào sản xuất ít nhất 5 dây chuyền sản xuất mới với tổng công
suất 190.000 tấn/năm. Những dây chuyền cũ sẽ được nâng cấp chủ yếu