Tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng

Lí Bạch, tự Thái Bạch, nguyên quán ở tỉnh Cam Túc, lớn lên ở đất Tứ Xuyên, là người ham đọc sách, ham đấu kiếm, văn võ toàn tài, có nhiều ước mơ hoài bão, mong có dịp mang tài của mình ra giúp đời. Song cuộc đời của nhà thơ này cũng gặp nhiều chuyện thất vọng. Vì thế, thơ Lí Bạch khi hăm hở thực hiện hoài bão, khi lại chùng xuống với những suy tư đầy nỗi niềm của một người khát vọng lớn mà không có đất thực hiện. "Thi tiên" Lí Bạch. Thơ ca của Lí Bạch không chỉ giúp con người thanh lọc tâm hồn mà còn có khả năng nâng cao năng lực nghệ thuật cho người đọc. Những bài Đường thi vốn chặt chẽ và nghiêm ngặt về niêm luật trở nên uyển chuyển và mềm mại dưới bàn tay điêu luyện của người nghệ nhân có tâm hồn phóng khoáng này.Lí Bạch là một trong những đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc. Thơ của ông đã thể hiện hai phương diện cơ bản trong con người "Thi tiên" Lí Bạch, đó là một nhà thơ có tài năng nghệ thuật đặc biệt và một con người có tấm lòng nghĩa tình cao cả đối với thiên nhiên và con người. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ và giàu giá trị nhân văn của ông đã đưa ông trở thành nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới thi đàn đời Đường và Trung Quốc. Thơ thơ ca Lí Bạch có phần lãng mạn tiêu cực song căn bản ông vẫn là nhà thơ lãng mạn tích cực. Thành công của ông thuộc về những thi phẩm thể hiện tình cảm của ông đối với nhân dân, với quê hương đất nước, với bạn bè. Tài năng nghệ thuật của ông là một tấm gương, một ước mơ cho muôn đời sau. Nỗi sầu nhân thế trong thơ ca Lí Bạch thể hiện một tấm lòng tha thiết tình đời, một tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tâm hồn của nhà thơ đa tài

docx8 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10397 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tại lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng lăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠI LẦU HOÀNG HẠC TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG LÍ BẠCH 1. Thể loại 754)... -846), Thôi Hiệu (704 -761), Bạch Cư Dị (772 -770), Vương Duy (701 -762), Đỗ Phủ (712 - 907), được coi là thời đại hoàng kim của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Là đỉnh cao rực rỡ của văn học Trung Hoa, thơ Đường không chỉ rộng rãi về đề tài, phong phú về số lượng mà còn đạt đến trình độ nghệ thuật rất cao, hình tượng thơ hàm súc, ngôn ngữ thơ tinh tế và hình thức biến hoá rất linh hoạt. Thành tựu của thơ Đường có sự góp mặt của những đỉnh cao như Lí Bạch (701 -Đời Đường (618 2. Tác giả Lí Bạch, tự Thái Bạch, nguyên quán ở tỉnh Cam Túc, lớn lên ở đất Tứ Xuyên, là người ham đọc sách, ham đấu kiếm, văn võ toàn tài, có nhiều ước mơ hoài bão, mong có dịp mang tài của mình ra giúp đời. Song cuộc đời của nhà thơ này cũng gặp nhiều chuyện thất vọng. Vì thế, thơ Lí Bạch khi hăm hở thực hiện hoài bão, khi lại chùng xuống với những suy tư đầy nỗi niềm của một người khát vọng lớn mà không có đất thực hiện. "Thi tiên" Lí Bạch. Thơ ca của Lí Bạch không chỉ giúp con người thanh lọc tâm hồn mà còn có khả năng nâng cao năng lực nghệ thuật cho người đọc. Những bài Đường thi vốn chặt chẽ và nghiêm ngặt về niêm luật trở nên uyển chuyển và mềm mại dưới bàn tay điêu luyện của người nghệ nhân có tâm hồn phóng khoáng này.-Lí Bạch là một trong những đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc. Thơ của ông đã thể hiện hai phương diện cơ bản trong con người "Thi tiên" Lí Bạch, đó là một nhà thơ có tài năng nghệ thuật đặc biệt và một con người có tấm lòng nghĩa tình cao cả đối với thiên nhiên và con người. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ và giàu giá trị nhân văn của ông đã đưa ông trở thành nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới thi đàn đời Đường và Trung Quốc. Thơ thơ ca Lí Bạch có phần lãng mạn tiêu cực song căn bản ông vẫn là nhà thơ lãng mạn tích cực. Thành công của ông thuộc về những thi phẩm thể hiện tình cảm của ông đối với nhân dân, với quê hương đất nước, với bạn bè. Tài năng nghệ thuật của ông là một tấm gương, một ước mơ cho muôn đời sau. Nỗi sầu nhân thế trong thơ ca Lí Bạch thể hiện một tấm lòng tha thiết tình đời, một tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tâm hồn của nhà thơ đa tài 3. Tác phẩm Bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là bài thơ nổi tiếng của Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, là cảm xúc về một cuộc chia tay trong cảm nhận của người ở lại. Lấy cảm hứng từ cuộc chia tay với Mạnh Hạo Nhiên – một tri âm tri kỉ, nhà thơ đã thể hiện nỗi niềm day dứt của mình về cuộc đời. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ độc đáo, đa nghĩa và có khả năng gợi cảm như "yên hoa", "cố nhân", "cô phàm", "thiên tế lưu"... 4. Đọc hiểu "Sầu nhân thế" là một trạng thái tâm lí thường thấy ở người nghệ sĩ thời phong kiến. Đó luôn là đề tài được thể hiện nhiều nhất trong lịch sử thơ ca và đã làm nên rất nhiều những đỉnh cao cho nền văn học nhân loại. Nỗi sầu không thể giải toả ấy đã được thể hiện trong một câu thơ bất tử của một nhà thơ đời Đường, ấy là "Thi tiên" Lí Bạch, niềm tự hào của thơ ca cổ điển Trung Hoa : Cất chén tiêu sầu, sầu cứ sầu Rút dao chặt nước, nước vẫn chảy (Trên lầu Tạ Liễu ở Dương Châu tiễn chú Vân làm Hiệu thư) Lí Bạch tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, nguyên quán ở Thành Kỉ, Lũng Tây, sinh trưởng ở Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu. Quê hương Lí Bạch vốn là nơi có phong cảnh hùng vĩ, sơn thuỷ hữu tình nổi tiếng ở Trung Quốc. Nơi đây tụ họp nhiều anh hùng hảo hán, cũng là nơi sản sinh ra những truyện truyền kì hấp dẫn. Những nhân tố này đã ảnh hưởng nhiều đến hồn thơ phóng khoáng và ý chí kiên cường của nhà thơ, là một trong những nguyên nhân đưa Lí Bạch trở thành nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của văn học Trung Hoa. một đề tài rất quen thuộc trong thơ ca cổ kim. Với một đề tài quen thuộc nhưng tài năng của Lí Bạch đã tạo nên một biểu tượng đẹp về tình bằng hữu. Mạnh Hạo Nhiên là bạn tri âm của Lí Bạch, trong bài thơ tặng Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch viết :-Cuộc đời Lí Bạch là cuộc đời của một con người đã "đọc nát vạn quyển sách, đi hết vạn dặm đường". Lí Bạch sáng tác rất nhiều, có tới trên 1000 bài thơ và nhiều bài nổi tiếng. Thơ Lí Bạch là sự kết hợp của một tâm hồn thơ bay bổng và một tấm lòng luôn tha thiết tình đời. Mỗi bài thơ của ông là một tâm sự của một người luôn tha thiết được thực hiện chí quân tử, đồng thời cũng là niềm say mê cảnh đẹp của giang sơn gấm vóc. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một bài thơ thành công và thể hiện khá tập trung những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, đề tài chia li giữa những người tri âm tri kỉ Ta yêu Mạnh Hạo Nhiên Phong lưu thiên hạ biết 740) là một nhà thơ có tiếng đời Đường. Dù chênh nhau 12 tuổi nhưng giữa hai nhà thơ có nhiều điểm tương đồng, đều gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời, tính tình hào hiệp, coi thường công danh, thích ngao du sơn thuỷ. Mạnh Hạo Nhiên theo lời triệu của triều đình, đi Dương Châu làm quan, chấm dứt những ngày bạn bè bên nhau, chén tạc chén thù. Bài thơ không có hình ảnh cuộc chia tay, chỉ có tâm sự của người đưa tiễn. Lầu Hoàng Hạc là một địa danh, di tích văn hoá nổi tiếng của Trung Quốc, lại là địa điểm của một cuộc chia li đầy tâm sự. Vì vậy, bài thơ như một bức tranh sơn thuỷ đẹp và gợi cảm. Ngôn ngữ thơ Đường vốn không phong phú nhưng lại rất hàm súc. Các nhà thơ cổ điển rất chú ý đến việc lựa chọn, gọt giũa và trau chuốt ngôn từ. Hình ảnh thơ cũng thường mang tính khái quát cao với những ẩn dụ tượng trưng có giá trị hàm súc. Nghệ thuật tinh xảo của ngôn ngữ và niêm luật tạo nên khả năng "ngôn hữu hạn ý vô cùng" cho bài thơ Đường. Niêm luật chặt chẽ và những quy tắc đối xứng tạo cho bài thơ vẻ đẹp cổ điển. Đặc biệt tính chất "thi trung hữu hoạ" và "thi trung hữu nhạc" được thể hiện rất triệt để trong thơ Đường. -Mạnh Hạo Nhiên (689 Có thể thấy bài thơ được sáng tác vào giai đoạn Lí Bạch đã gặp một số trắc trở trên con đường thực hiện lí tưởng giúp nước của mình. Lí Bạch từng được giới thiệu vào triều đình của Đường Minh Hoàng nhưng ông đã rất thất vọng và tìm quên trong vò rượu. Tính tình phóng khoáng của Lí Bạch không hợp với cuộc sống chen chúc và đầy phức tạp chốn quan trường. Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ Đường thuộc trường phái thơ "sơn thuỷ điền viên", là một người phóng khoáng, hợp với cuộc sống thanh nhàn nơi làng quê nhưng ông lại đến Dương Châu làm quan. Và vì thế Lí Bạch tiễn đưa bạn trong một tâm trạng đầy trắc ẩn, vừa cô đơn vừa lo lắng. Bài thơ tứ tuyệt cổ điển hai mươi tám chữ nhưng cô đọng cả một niềm day dứt lớn. Bài thơ có lối mở đầu quen thuộc của Đường thi, câu đề từ giới thiệu tình huống : Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu (Bạn từ lầu Hạc lên đường) Câu thơ dịch đã làm mất khả năng hàm súc của ngôn từ. Những từ "cố nhân", "tây từ" truyền tải nghĩa rộng hơn nhiều so với từ "bạn" và ý nghĩa chỉ địa điểm cuộc chia tay. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần bằng của nguyên tác đã gợi một dư âm cho câu thơ thể hiện trạng thái bịn rịn của cuộc li biệt. Cố nhân xuôi Dương Châu là đi về hướ một không gian đầy chất thơ. Vừa là không gian thực của cuộc chia tay, vừa là không gian nghệ thuật :-ng đông. "Tây từ" là hướng về phía tây (về phía lầu Hoàng Hạc khi đã lên thuyền xuôi hướng Dương Châu), gợi hình ảnh người ra đi đang hướng về lầu Hoàng Hạc. Đây thực ra là hình ảnh người ra đi trong cảm nhận của người ở lại. Hình tượng, thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ đều được tái hiện qua cảm nhận của người ở lại. Câu thơ thứ nhất là hoàn cảnh, địa điểm của cuộc chia tay, đều rất cụ thể. Câu thơ thứ hai lại mở ra không gian cuộc chia tay Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu (Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng) Bốn chữ "yên hoa tam nguyệt" được dùng để chỉ thời gian, với ý nghĩa là tháng ba, vào mùa xuân. Đây là một buổi sáng mùa xuân, khi hơi nước quyện với sương mù tháng ba đã tạo nên hình ảnh "hoa khói". Đây là thời gian và không gian cuộc chia tay song cũng là những biểu tượng nghệ thuật có sức gợi rất lớn. "Yên hoa" là "hoa và khói", thường chỉ khói sóng trên sông, khói sương mù. Vào mùa xuân ở Trung Quốc, đây là hình ảnh thiên nhiên không mấy xa lạ và nó đã đi vào thơ như một hình tượng nghệ thuật đầy gợi cảm, làm thức dậy bao nỗi niềm tâm sự của thi nhân như nhà thơ Thôi Hiệu đã thổ lộ : "Yên ba giang thượng sử nhân sầu". "Yên hoa" còn có nghĩa là cảnh đẹp mùa xuân. Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên là hai người bạn tri âm, tính tình đều rất phóng khoáng, thích ngao du sơn thuỷ. Với hai tâm hồn nghệ sĩ ấy thì lầu Hoàng Hạc giữa mùa xuân là khung cảnh gợi bao thi hứng, đó là nơi lí tưởng để họ đàm đạo thi ca và nhân tình thế thái. Đó cũng là những giây phút mà cả hai đều thú vị. Thế nhưng họ lại phải chia tay nhau. Và đương nhiên mỗi người mang trong mình một nỗi niềm tâm sự. Câu thơ thứ hai đã hé mở tâm sự của người đưa tiễn. Tâm sự ấy được bộc lộ rõ hơn ở hai câu thơ cuối : Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. (Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.) Đề tài là một cuộc chia li nhưng thực ra bài thơ lại là tâm trạng của người đưa tiễn, tức là chủ thể trữ tình của bài thơ. Vì vậy thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ vừa hư vừa thực, nó thiên về thời gian và không gian tâm tưởng. Được viết theo mạch cảm xúc nên bài thơ có kết cấu hướng tâm. Tâm điểm là hình ảnh người ra đi. Cuộc đưa tiễn tinh thần này được diễn ra trong một không gian mở và một thời gian vô định. người đưa tiễn. Thả hồn theo bóng người ra đi, người ở lại dõi tầm mắt theo người ra đi đến khi hình ảnh người ra đi chỉ còn là cánh buồm nhỏ rồi dần mất hút, và trước mắt chỉ còn duy nhất hình ảnh dòng Trường Giang cuộn chảy :-Không gian mở ra trước tầm mắt của nhân vật trữ tình, từ lầu Hoàng Hạc hướng về Dương Châu, nơi người ra đi đang hướng đến. Nhưng chỉ lướt qua hình tượng "yên hoa" để dừng lại và tạo điểm nhấn ở hình ảnh "cô phàm". Đây là một bài thơ giàu chất hội hoạ. Bài thơ như một bức tranh xinh xắn, có chiều sâu hun hút và điểm nhấn của bức tranh hay hình ảnh sắc nét nổi trội nhất của bức tranh là hình ảnh một cánh buồm lẻ loi giữa màu xanh bất tận của nước Trường Giang và của chân trời. Cánh buồm nhỏ ấy đã ở rất xa, chỉ còn là viễn ảnh, nó thật nhỏ nhoi và cô độc giữa cái bát ngát vô tận của màu xanh nối tiếp đến tận chân trời. Câu thơ thứ ba trong bài thơ tứ tuyệt có vai trò rất quan trọng. Ở câu thơ này, tác giả đã tạo nên một cặp hình ảnh đối lập, một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Đó là sự đối lập giữa "cô phàm" và "bích không tận". Cái nhỏ nhoi đơn độc của cánh buồm giữa sự mênh mông của sông nước đã gợi tả hình ảnh của người ra đi. Giữa cảnh sắc nước trời mùa xuân thơ mộng, người ra đi lại hướng đến một nơi xa xôi đầy những điều bất trắc. Cô độc là tâm trạng tất yếu của mọi cuộc chia li. Nhất là cuộc chia tay giữa những người bạn tri âm. Vậy cánh buồm cô đơn ấy là tâm trạng cô đơn của chủ thể trữ tình Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu (Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời) Dòng Trường Giang vốn hùng vĩ, dưới cái nhìn của người ở lại càng dữ dội hơn. Nó trở thành "thiên tế lưu". Bản dịch đã không lột tả được thần thái của hai câu thơ cuối. Cái chất "thiên tế lưu" của dòng Trường Giang thể hiện được cả sóng trong lòng người đưa tiễn, đó là một cơn sóng dữ dội. Chứng tỏ cuộc chia tay đã tác động rất mạnh đến tâm lí người ở lại. Đây là những hình ảnh thơ rất hay xuất hiện trong thơ Lí Bạch. Là nhà thơ lãng mạn, thích phóng túng, ưa thích tự do nên bên cạnh những vần thơ phá luật, nhà thơ còn thích dùng những hình ảnh có tính chất dữ dội và giàu khả năng gợi cảm. Khi miêu tả thác Lư Sơn tác giả đã dùng hình ảnh "Phi lưu trực há tam thiên xích", còn dòng Trường Giang thì như từ trên trời đổ xuống. Cái dữ dội của dòng Trường giang dưới con mắt của người đưa tiễn có thể liên tưởng rộng hơn nữa. Phải chăng Dương Châu phồn hoa đô hội còn có cái gì đó thật dữ dằn đối với người sắp đến. Cánh buồm của Mạnh Hạo Nhiên đơn độc và vô cùng nhỏ bé trước cái vô cùng của sông nước Trường Giang và thật yếu ớt mong manh trước cái dữ dội của dòng sông ấy. Bản chất trong sáng, thẳng ngay và tấm lòng thanh bạch của những người nghệ sĩ có tâm như Lí Bạch, Mạnh Hạo Nhiên thật không dễ tồn tại yên ổn trong thế giới quan trường đầy cạm bẫy và mưu mô danh lợi. Đó có phải là nỗi lo lắng của người ở lại dành cho người ra đi khi biết rằng bạn mình đến một nơi chẳng mấy bình yên ? Sinh thời Lí Bạch là người thích ngao du sơn thuỷ song cũng luôn da diết một khát vọng giúp nước. Là người quân tử, cả Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên đều đã muốn mang tài năng của mình ra giúp nước. Nhưng sau nhiều phen thất vọng vì không thực hiện được hoài bão chính trị, những khát khao ấy đã trở thành nỗi đau đời trong ông. Có thể bài thơ được sáng tác khi Lí Bạch đã vấp phải những thất bại trên đường đi tìm minh quân để phát huy tài năng, giúp ích thiên hạ. Vì vậy khi Mạnh Hạo Nhiên quyết định đến Quảng Lăng để làm quan, nỗi háo hức được phò vua giúp nước trong Lí Bạch đã phần nào bớt sôi nổi. Và thay vào đó là tâm trạng hồ nghi. Và, chính vì lẽ đó mà bên cạnh nỗi cô đơn của cả người đi và người ở lại còn là một nỗi băn khoăn day dứt. Về nội dung, bài thơ có khả năng gợi rất nhiều liên tưởng. Nhưng bao trùm lên tất cả là tâm trạng rất bộn bề của người đưa tiễn. Sức khái quát và khả năng gợi tả của bài thơ được làm nên bởi những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bài thơ nhỏ nhắn xinh xắn như một bức tranh sơn thuỷ mà màu sắc và đường nét đều rất sắc sảo. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất hội hoạ, bài thơ đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật của thi tiên Lí Bạch. Và cuộc chia tay tinh thần đầy lưu luyến diễn ra trong tâm tưởng người ở lại đã chứng tỏ tình bạn thắm thiết giữa hai thi nhân tài năng đời Đường. CẢM XÚC MÙA THU(Thu hứng) ĐỖ PHỦ 1. Tác giả 763), lúc đất nước Trung Quốc chìm ngập liên miên trong cảnh loạn li. Và khi ấy Đỗ Phủ cùng gia đình cũng phải chạy loạn nhiều nơi. Phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, tâm trạng trước hiện thực khốn khổ của nhân dân, của nạn chiến tranh, nạn đói là nội dung cơ bản của thơ ca Đỗ Phủ. Ông đặc biệt thành công ở mảng thơ biểu hiện tâm trạng khác nhau khi sống trong cảnh tha phương cầu thực vì loạn li – trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ "Thu hứng" gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật. -770) là nhà thơ lớn, không chỉ của đời Đường, mà cả của lịch sử thơ ca Trung Quốc. Đỗ Phủ làm thơ từ lúc 7 tuổi, lúc nhà Đường còn phồn vinh, nhưng tài năng của ông nở rộ vào giai đoạn sau sự biến An Lộc Sơn – Sử Tư Minh (755 -Đỗ Phủ (712 2. Tác phẩm Cảm xúc mùa thu (Thu hứng 1) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Là một bài thơ tả cảnh và tả tình, bài thơ có kết cấu khá quen thuộc : bốn câu đầu thiên về tả cảnh, bốn câu sau thiên về tả tình. Phong cảnh mùa thu mang những nét đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của một người đang phải tha phương cầu thực, nhớ quê hương nhưng không thể trở về nên hiu hắt và rất buồn. Bức tranh phong cảnh có đủ màu sắc, hình khối, đường nét và âm thanh, tất cả tạo nên sức gợi cho bài thơ. Đây là một bài thơ điển hình cho thể thơ luật Đường và cho phong cách thơ trữ tình hiện thực Đỗ Phủ. 3. Đọc hiểu Sử Tư Minh. Chứng kiến cảnh đất nước loạn li và là nạn nhân của xã hội thời loạn nên văn thơ của "Thi thánh" Đỗ Phủ chứa đựng chất liệu hiện thực rất phong phú. Thơ ông được coi là "thi sử" với nghệ thuật điêu luyện và khả năng truyền tải nội dung tư tưởng thời đại rất diệu kì. Xuất thân trong gia đình Nho học, mấy đời làm quan, ông nội là nhà thơ Đỗ Thẩm Ngôn nổi tiếng thời Sơ Thịnh Đường, Đỗ Phủ mang trong mình lí tưởng của người quân tử, muốn tiến thân bằng con đường khoa cử, cứu nước giúp đời. Nhưng triều đình phong kiến thối nát, vua tôi ăn chơi sa đoạ thời ấy đã làm lí tưởng của ông đổ vỡ. Ông bị đẩy xuống tận đáy xã hội và phải chết đói trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách quê người. Qua thơ Đỗ Phủ, xã hội đời Đường ở hai giai đoạn trước và sau loạn An Lộc Sơn hiện lên rất đậm nét. Mang tâm trạng đau đời của một con người có trách nhiệm với dân tộc, với đất nước nên thơ ca Đỗ Phủ là những vần thơ thấm nỗi buồn và đẫm nước mắt. Chùm thơ "Thu hứng" thể hiện rất rõ nỗi đau đời ấy của thi nhân. "Thu hứng" được sáng tác năm 766, bốn năm trước khi nhà thơ qua đời. Đây là giai đoạn nhà thơ đang cùng gia đình chạy loạn trong cảnh đói rét và bần hàn, cũng là thời kì chín muồi tài năng của ông.-Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai đỉnh cao chói lọi của thơ Đường, tạo nên hai khuynh hướng trong Đường thi. Lí Bạch mang phong cách lãng mạn, một người lãng mạn cuồng phóng ; Đỗ Phủ mang phong cách hiện thực, một hiện thực sâu sắc. Cuộc đời của Đỗ Phủ gắn liền với điều kiện xã hội đầy biến động của đất nước Trung Hoa thời loạn An Lộc Sơn nhất là đối với những bài trữ tình phong cảnh. Nội dung của bài Thu hứng cũng có thể phân chia theo kiểu cấu trúc thứ hai. Bốn câu đầu tả cảnh, bốn câu sau bày tỏ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất nhiên cách phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi trong thơ ca nói chung và trong thơ Đường nói riêng, tình và cảnh không thể tách rời, cảnh bao giờ cũng chứa tình và tình thì khó có thể bày tỏ nếu thiếu cảnh. Trong Thu hứng, cảnh và tình hoà quyện tạo nên khả năng biểu đạt tâm trạng cho bài thơ. Thơ Đường thường có những quy định rất chặt chẽ về niêm luật, về thi liệu, về đề tài. Hình ảnh và ngôn từ trong thơ Đường, vì vậy, thường không phong phú. Các nhà thơ thường có thói quen sử dụng một số hình ảnh và ngôn từ mang tính quy ước nhất định. Nhưng chính những yêu cầu ngặt nghèo về thi pháp ấy lại kích thích khả năng sử dụng ngôn ngữ của các nhà thơ cổ điển. Với những hình ảnh và vốn từ ngữ không nhiều ấy họ đã tinh luyện ngôn từ tạo cho ngôn ngữ thơ khả năng cô đọng, hàm súc ở mức tối đa. Cảnh mùa thu là đề tài quá quen thuộc của mọi loại hình nghệ thuật. Thiên nhiên mùa thu dường như đã mang sẵn trong nó phẩm chất tượng trưng nghệ thuật. Mọi loại hình nghệ thuật đều đã có những kiệt tác về đề tài mùa thu. Và trong văn học, nghệ thuật của ngôn từ, thì đề tài mùa thu đã có rất nhiều kiệt tác. Trong thơ ca phương Đông, cảnh mùa thu xuất hiện rất thường xuyên. Vì vậy, xét về đề tài, về hình ảnh thơ thì Thu hứng của Đỗ Phủ không có gì mới lạ. Cái mới lạ thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ và cũng là thành công của bài thơ chính là ở nghệ thuật miêu tả, sử dụng sáng tạo niêm luật thơ và nhất là hình tượng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa thu với những hình ảnh rất quen thuộc, đó là rừng phong, là khí trời u ám, mặt nước mờ sương :- phần vịnh cảnh và phần tả tình -Một bài thất ngôn bát cú Đường thi thường có cấu trúc bốn phần là đề, thực, luận, kết và có những quy tắc riêng cho nội dung từng phần. Thế nhưng cấu trúc ấy cũng có thể chia làm hai phần Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu loà. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa.) Bốn câu thơ tả cảnh thu vừa có chất nhạc vừa có chất hoạ. Đủ cả sắc màu, đường nét và âm thanh. Nhưng sắc màu không sáng, thanh âm không vui. Đường nét, hình ảnh của bức tranh thì rất hùng vĩ, mở ra một khung cảnh thiên nhiên với đủ núi rừng, sông nước, bầu trời và cửa ải. Một không gian rộng nhưng có giới hạn chứ không vô tận. Đó là một không gian u ám của một buổi sáng mùa thu không có ánh bình minh. Không khí u ám được gợi lên ở những từ ngữ "điêu thương", "khí tiêu sâm", "tiếp địa âm". Nó gợi cảm giác u ám và lạnh lẽo. Nhạc tính được thể hiện ở nghệ thuật bố trí thanh bằng trắc và cách gieo vần. Bốn câu thơ này có tới ba câu gieo vần bằng, đồng thời lại sử dụng rất nhiều thanh bằng (17/28 thanh bằng), tạo nên cảm giác mênh mang của tâm trạng trữ tình. Xét về nội dung, đây là bốn câu thơ tả thực cảnh mùa thu với những nét thu rất đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Tính chất cổ điển của Đường thi thể hiện ở bốn câu thơ này. Có thể hình dung một người hoạ sĩ đứng ngắm mùa thu và cất bút vẽ, bắt đầu nhìn từ cảnh gần, từ rừng phong rồi đến dòng sông, xa hơn nữa là dãy núi
Tài liệu liên quan