Sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật có quan hệ rất mật thiết với các yếu tố ngoại cảnh. Yếu tố ngoại cảnh có thể đẩy mạnh, hay ức chế hoặc đình chỉ quá trình sinh trưởng, phát triển của vi sinh vật. Đa số các yếu tố đó đều có một đặc tính tác dụng chung biểu hiện ở 3 điểm hoạt động: tối thiểu, tối thích và cực đại.
Với tác dụng tối thiểu của yếu tố môi trường vi khuẩn bắt đầu sinh trưởng và mở đầu các quá trình trao đổi chất, với tác dụng tối thích vi sinh vật sinh trưởng với tốc độ cực đại và biểu hiện hoạt tính trao đổi chất và trao đổi năng lượng lớn nhất, với tác dụng cực đại vi khuẩn ngừng sinh trưởng và thường chết.
21 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3094 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến vi sinh vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến vi sinh
vật:
77
Sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật có quan
hệ rất mật thiết với các
yếu tố ngoại cảnh. Yếu tố ngoại cảnh có thể đẩy
mạnh, hay ức chế hoặc đình chỉ
quá trình sinh trưởng, phát triển của vi sinh vật. Đa số
các yếu tố đó đều có một đặc
tính tác dụng chung biểu hiện ở 3 điểm hoạt động: tối
thiểu, tối thích và cực đại.
Với tác dụng tối thiểu của yếu tố môi trường vi khuẩn
bắt đầu sinh trưởng và
mở đầu các quá trình trao đổi chất, với tác dụng tối
thích vi sinh vật sinh trưởng với
tốc độ cực đại và biểu hiện hoạt tính trao đổi chất và
trao đổi năng lượng lớn nhất,
với tác dụng cực đại vi khuẩn ngừng sinh trưởng và
thường chết.
Thích hợp
Thấp nhất Cao nhất
Cường độ tác dụng của yếu tố bên ngoài
Đồ thị biểu diễn tác dụng của yếu tố bên ngoài lên vi
sinh vật
Mức độ tác động của yếu tố ngoại cảnh đến vi sinh
vật được quyết định bởi
các yếu tố sau:
- Tính chất và cường độ tác tác dụng.
- Đặc tính của cơ thể vi sinh vật.
- Trạng thái môi trường mà vi sinh vật tồn tại.
- Quan hệ giữa các yếu tố ngoại cảnh với nhau.
- Thời gian tác động.
Tác dụng có hại của các yếu tố bên ngoài đối với vi
sinh vật thể hiện chủ yếu
ở những biến đổi sau:
- Phá huỷ thành tế bào.
- Làm biến đổi tính thấm của màng nguyên sinh chất.
- Làm thay đổi đặc tính keo của nguyên sinh chất.
- Kìm hãm hoạt tính của các enzim.
- Phá huỷ quá trình sinh tổng hợp của tế bào.
Các yếu tố ngoại cảnh tác dụng lên tế bào vi sinh vật
thuộc 3 nhóm: yếu tố
vật lý, yếu tố hoá học và yếu tố sinh vật học.
1. Ảnh hưởng của nhân tố vật lý đến vi sinh vật:
a. Độ ẩm:
Hầu hết các quá trình sống của vi sinh vật có liên
quan đến nước do đó độ
ẩm là một yếu tố quan trọng của môi trường. Hàm
lượng nước trong tế bào vi sinh
vật khá cao: vi khuẩn là 75 – 85%, nấm men 73 –
82%, nấm mốc 84 – 90%. Nước
78
là môi trường hoà tan các chất dinh dưỡng trước khi
hấp thụ vào tế bào, đảm bảo sự
cân bằng áp suất thẩm thấu, ngoài ra nước rất cần
thiết cho việc thực hiện các phản
ứng hoá học xảy ra trong tế bào.
Đa số vi khuẩn thuộc nhóm ưa nước (hydrophil)
nghĩa là chúng cần nước ở
dạng tự do dễ hấp thụ, chỉ có một số xạ khuẩn thuộc
nhóm ưa khô (xerophilic) vì
chúng sử dụng được cả nước hydroscopic gắn trền bề
mặt các hạt đất ở dạng các
phân tử.
Nhu cầu của vi sinh vật đối với nước có thể được
biểu thị một cách định
lượng bằng độ hoạt động của nước (water activity,
aw) trong môi trường.
P
aw =
P0
Trong đó: P là áp suất hơi nước của dung dịch.
Po là áp suất hơi nước của nước nguyên chất.
Nước nguyên chất có aw = 1, nước biển có aw =
0,980, máu người có aw =
0,995, cá muối có aw =0,750, kẹo, mứt có aw =
0,700. Đa số vi sinh vật sinh trưởng
được trong phạm vi aw = 0,63 – 0,99.
Khi thiếu nước sẽ xảy ra hiện tượng loại nước ra khỏi
tế bào, trao đổi chất bị
giảm và tế bào có thể bị chết. Sức đề kháng của vi
sinh vật với trạng thái khô là
khác nhau và phụ thuộc vào:
- Nguồn gốc vi sinh vật: vi sinh vật trong không khí
chịu khô tốt hơn vi sinh
vật trong đất, vi sinh vật trong đất chịu khô tốt hơn vi
sinh vật trong nước.
- Loại hình vi sinh vật: sức đề kháng của xạ khuẩn tốt
hơn nấm men, nấm
men tốt hơn vi khuẩn và vi khuẩn tốt hơn nấm mốc.
Ngay trong một nhóm vi sinh
vật thì sức đề kháng của các loài vi sinh vật khác
nhau là không giống nhau, ví dụ:
một số đơn cầu khuẩn G- nếu thiếu nước một vài giờ
sẽ bị chết , trong khi đó các
loài Streptococcus có thể chịu được hàng tuần, đặc
biệt trực khuẩn lao
(Micobacterim tuberculosis) có sức đề kháng cao với
sự khô trong không khí.
- Trạng thái tế bào: tế bào già chịu khô tốt hơn tế bào
non, bào tử chịu khô
tốt hơn tế bào tế bào dinh dưỡng.
Đa số vi sinh vật đất phát triển mạnh mẽ nhất ở độ
ẩm đồng ruộng 60 –
80% (vi khuẩn cố định đạm hiếu khí sinh trưởng
được ở độ ẩm 40 – 80%, vi khuẩn
nitrat hoá sinh trưởng được ở độ ẩm 60 – 70%). Do
đó việc đảm bảo độ ẩm trong
đất có ý nghĩa quyết định hoạt tính sinh học của đất.
Hoạt đông của vi sinh vật sẽ bị
ức chế nếu đất thiếu ẩm, trong điều kiện đất khô hạn
quá (độ ẩm dưới 40% độ ẩm
bão hoà) thì mọi quá trình sinh học trong đất sẽ bị
ngừng trệ.
Ứng dụng: do vi sinh vật cần độ ẩm nhất định để sinh
trưởng và phát triển
cho nên bằng cách phơi khô, sấy khô hoặc đông khô
có thể bảo quản được lâu dài
nông sản, thực phẩm và các nguyên liệu khác
b. Nhiệt độ:
Hoạt động trao đổi chất của vi sinh vật có thể coi là
kết quả của hàng loạt các
phản ứng hoá học trong tế bào. Vì các phản ứng này
phụ thuộc chặt chẽ vào nhiệt
79
độ nên yếu tố nhiệt độ rõ ràng là ảnh hưởng sâu sắc
đến quá trình sống của tế bào.
Hoạt động của vi sinh vật bị giới hạn trong môi
trường chứa nước ở dạng có thể hấp
thụ. Vùng này của nước nằm từ 20 đến 1000C gọi là
vùng sinh động học.
Nhiệt độ cao làm biến tính protein, các enzim bị mất
hoạt tính, ngoài ra nhiệt
độ cao còn phá hoại màng nguyên sinh chất và làm
bất hoạt ARN. Do đó ở nhiệt độ
cao vi sinh vật có thể bị tiêu diệt. Các vi khuẩn không
sinh bào tử thường chỉ chịu
được 60oC trong vòng 30 phút, 70oC trong 10 – 15
phút, 80 – 100oC trong 30 – 60
giây. Như vậy nhiệt độ cao trên 65oC sẽ gây tác hại
cho vi sinh vật, ở nhiệt độ trên
100oC hầu hết tế bào sinh dưỡng bị tiêu diệt trong
một thời gian nhất định. Sức đề
kháng của vi sinh vật đối với nhiệt độ cao phụ thuộc
vào từng loài vi sinh vật, tuổi
tế bào, có hay không có bào tử, ngoài ra còn phụ
thuộc vào điều kiện môi trường
(pH, áp suất thẩm thấu, thành phần chất hữu cơ trong
môi trường). Đây chính là cơ
sở cho việc xác định biện pháp khử trùng ở nhiệt độ
cao có hiệu quả.
Nhiệt độ thấp (dưới vùng sinh động học) có thể làm
bất hoạt quá trình vận
chuyển các chất hoà tan qua màng nguyên sinh chất
do thay đổi cấu hình không
gian của một số permeaza chứa trong màng hoặc ảnh
hưởng đến việc hình thành và
tiêu thụ ATP cần thiết cho quá trình vận chuyển chủ
động các chất dinh dưỡng. Vi
sinh vật thường chịu được nhiệt độ thấp. Ở nhiệt độ
dưới điểm băng hoặc thấp hơn
chúng không thể hiện hoạt động trao đổi chất rõ rệt.
Sức đề kháng của vi sinh vật
đối với nhiệt độ thấp phụ thuộc vào loại hình vi sinh
vật, trạng thái sinh lý của tế
bào vi sinh vật cũng như thành phần môi trường.
Để bảo quản giống vi sinh vật, thực phẩm và các vật
liệu cần thiết người ta
dùng phương pháp làm lạnh. Tuy nhiên cần chú ý sử
dụng phương pháp làm lạnh
thích hợp để đáp ứng yêu cầu.
Vùng nhiệt sinh trưởng của vi sinh vật là giới hạn
giữa nhiệt độ cực tiểu và
nhiệt độ cực đại. Giới hạn này giữa các vi sinh vật
khác nhau là khác nhau, ở các vi
khuẩn sống hoại sinh giới hạn này tương đối rộng
nhưng các vi khuẩn gây bệnh thì
giới hạn này lại rất hẹp. Căn cứ vào giới hạn nhiệt độ
sinh trưởng của vi sinh vật mà
người ta chia vi sinh vật thành 3 nhóm:
- Nhóm vi sinh vật ưa lạnh (psychrophilic): sinh
trưởng được ở nhiệt độ từ 0
- 20oC, và tốt nhất là 10oC. Nhóm vi sinh vật này
thường phân bố trong nước biển,
các ao hồ và suối nước lạnh, trong các kho lạnh bảo
quản thực phẩm ví dụ : vi
khuẩn phát quang Photobacterium ficheri, vi khuẩn
Flavobacterium, Pseudomonas,
Alcaligenes... gây hư hỏng thực phẩm. Hoạt tính trao
đổi chất của nhóm vi sinh vật
này thường thấp.
- Nhóm vi sinh vật ưa ấm (mesophilic): sinh trưởng
được ở nhiệt độ 20 –
25oC; 30 – 370C; 40 – 45oC. Đa số vi sinh vật thuộc
nhóm này, bao gồm nấm men,
nấm mốc, vi khuẩn hoại sinh, vi khuẩn gây bệnh cho
người và động vật.
- Nhóm vi sinh vật ưa nóng (thermophilic): sinh
trưởng được ở nhiệt độ từ 45
– 50oC; 50 – 60oC; 70 – 80 oC. Các vi sinh vật ưa
nóng gồm chủ yếu là xạ khuẩn, vi
khuẩn sinh bào tử, nấm mốc thường gặp ở các bãi
rác, đống phân ủ, suối nước nóng,
vùng núi lửa.
80
Đặc biệt còn có một số vi sinh vật có khả năng chịu
nhiệt, đó là nhóm vi sinh
vật có khả năng sinh trưởng trên nhiệt độ sôi của
nước như vi khuẩn Pyrodium
occultum ở 110oC, Pyrococcus woesei ở 104,8oC,
Thermococcus celer ở 103oC,
virut HIV chịu được nhiệt độ 1000C trong 30 phút.
c. Không khí:
Oxy là chất có vai trò quan trọng trong sinh trưởng
của vi sinh vật, tuy vậy
oxy có thể rất cần cho nhóm vi sinh vật này nhưng lại
gây độc đối với nhóm vi sinh
vật khác. Căn cứ vào sự thích ứng với oxy của vi sinh
vật, người ta chia vi sinh vật
thành 3 nhóm:
- Vi sinh vật hiếu khí: có thể sinh trưởng trong khí
quyển chứa 21% O2.
Chúng cần nhiều năng lượng hơn từ sự oxy hoá chất
dinh dưỡng so với các nhóm vi
sinh vật khác, do đó khi oxy bị hạn chế thì sinh
trưởng của nhóm này bị chậm lại.
Vi sinh vật hiếu khí sinh trưởng tốt ở nồng độ oxy 1 –
15%.
- Vi sinh vật kỵ khí: không thể sinh trưởng trong môi
trường có oxy, thậm
chí một số vi sinh vật bị chết khi tiếp xúc với oxy.
- Vi sinh vật tuỳ tiện: có thể sinh trưởng trong môi
trường có đủ hoặc thiếu
oxy, có hoặc không có oxy. Trong điều kiện không
có oxy chúng thu năng lượng
bằng sự lên men.
d. Các tia bức xạ:
Ánh sáng có thể gây ra những biến đổi hoá học và
dẫn đến những tổn thương
sinh học nếu được tế bào hấp thụ. Mức độ gây hại
của ánh sáng tuỳ thuộc vào mức
năng lượng trong lượng tử ánh sáng được hấp thụ và
mức năng lượng trong lượng
tử lại phụ thuộc gián tiếp vào chiều dài sóng của tia
chiếu. Thường các tia sóng có
chiều dài khoảng 10.000 Ao mới gây tác hại cho vi
sinh vật, đó là ánh sáng mặt trời,
tia tử ngoại, tia X, tia gamma và tia vũ trụ.
Ánh sáng mặt trời: là nguồn tia chiếu tự nhiên nhất
có tác dụng phá huỷ tế
bào vi sinh vật (trừ nhóm vi khuẩn dinh dưỡng quang
năng) do tia UV (2900 – 4000
Ao) trực tiếp tác động lên tế bào hoặc có thể gián tiếp
do tạo ra các chất độc loại
peroxit trong môi trường có chứa vi sinh vật. Tác
dụng này sẽ bị yếu đi nếu tế bào
có vỏ nhầy, có chứa sắc tố, có bào tử và tăng cường
hơn khi vi sinh vật được xử lý
bằng thuốc nhuộm như metilen, eritrozin, xanh
toluidin...
Tia tử ngoại (tia cực tím – UV) có bước sóng từ 100
– 3.000 Ao có thể kìm
hãm sự sinh trưởng, gây đột biến gen, cải biến tính
chất di truyền, giết chết vi sinh
vật. Tác dụng của tia tử ngoại phụ thuộc vào:
- Loại hình vi sinh vật.
- Liều lượng và thời gian chiếu.
- Chiều dài bước sóng: Tia tử ngoại có bước sóng
2537 – 2650 Ao có tác
dụng mạnh nhất
- Trạng thái môi trường: môi trường có mặt xistin
(hợp chất có chứa SH) sẽ
hạn chế tác dụng do các hợp chất này hấp thụ tia tử
ngoại, bảo vệ vi sinh vật, tuy
nhiên nếu có mặt thuốc nhuộm (eosin, eritrosin) nồng
độ 0,01% sẽ tăng cường tác
dụng.
81
Do lực xuyên sâu của tia tử ngoại kém, chỉ xuyên qua
lớp nước trong và thuỷ
tinh mỏng nên chúng thường được sử dụng để khử
trùng không khí như phòng mổ,
buồng cấy...
Tia bức xạ ion hoá: các tia bức xạ có bước sóng ngắn
như tia X (0,06 – 136
Ao), tia γ (0,006 – 1,4 Ao) sẽ có năng lượng lớn đủ
để gây ion hoá các phân tử, tách
các electrron và phân huỷ các phân tử thành các
nguyên tử hoặc nhóm nguyên tử
được gọi là tia bức xạ ion hoá.
Tia bức xạ ion hoá gây tác dụng trực tiếp làm phá
huỷ các thành phần quan
trọng và đặc biệt nhạy cảm của tế bào như ADN,
protein và tác dụng gián tiếp do sự
hình thành các gốc oxy hoá hoạt động làm hư hại
ADN và protein tế bào. Ví dụ:
phân tử H2O bị tách thành OH- và H+, gốc OH- rất
hoạt động sẽ gây hư hại ADN và
protein.
Người ta sử dụng các tia bức xạ ion hoá trong công
tác khử trùng, tiêu độc,
trong bảo quản chế biến và trong tác y, vi sinh vật
học (gây đột biến, phá huỷ các
độc tố vi khuẩn).
e. Nồng độ các chất hoà tan (áp suất thẩm thấu):
Màng nguyên sinh chất là một màng bán thấm. Áp
suất thẩm thấu của tế bào
vi sinh vật thường ở 5 – 20 atm, do vậy chúng cần
môi trường có áp suất thẩm thấu
tương ứng. Áp suất thẩm thấu của môi trường được
quyết định bởi nồng độ các chất
hoà tan trong môi trường mà vi sinh vật tồn tại.
Trong môi trường ưu trương (hypertonic) tức là môi
trường có áp suất thẩm
thấu cao, tế '62ào vi sinh vật bị co nguyên sinh chất
do bị mất nước, tế bào bị khô
sinh lý và sẽ bị chết nếu kéo dài. Do đó trong thực tế
người ta thường bảo quản và
chế biến thực phẩm (muối dưa, cà, ướp thịt, cá, làm
mứt...) bằng cách dùng môi
trường có nồng độ chất tan cao (nồng độ muối 15 –
20%, nồng độ đường 50 –
80%). Với nồng độ chất tan như vậy để tạo áp suất
thẩm thấu khoảng 100 atm, cao
hơn rất nhiều so với giới hạn áp suất thẩm thấu mà vi
sinh vật tồn tại được (5 – 20
atm ứng với nồng độ muối dưới 2% và đường 20 –
30%).
Trong môi trường nhược trương (hypotonic), tế bào
vi sinh vật bị trương
nguyên sinh chất do hút nước nhiều, tuy nhiên do
thành tế bào vi sinh vật khá vững
chắc nên không xảy ra hiện tượng vỡ sinh chất.