Đa số cây thực vật hai lá mầm đều có cuống lá và phiến lá phân biệt với nhau
tương đối rõ rệt, do đó trong cấu tạo giải phẫu cũng phân biệt hai phần này.
a. Cấu tạo của cuống lá
Cuống lá của nhiều cây thườngphân biệt mặt trên và mặt dưới rất rõ: Mặt trênphẳng hoặc hơi lõm, mặt dưới lồi. Khi cắt ngang qua cuống lá, người ta phân biệt được các phần chính sau đây:
+ Biểu bì: thường là những tế bào hình chữ nhật, sắp xếp theo chiều dài của
13 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 5621 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Cấu tạo giải phẫu của lá cây thực vật hai lá mầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cấu tạo giải phẫu của lá cây thực vật hai lá mầm
Đa số cây thực vật hai lá mầm đều có cuống lá và
phiến lá phân biệt với nhau
tương đối rõ rệt, do đó trong cấu tạo giải phẫu cũng
phân biệt hai phần này.
a. Cấu tạo của cuống lá
Cuống lá của nhiều cây thường phân biệt mặt trên và
mặt dưới rất rõ: Mặt trên
phẳng hoặc hơi lõm, mặt dưới lồi. Khi cắt ngang qua
cuống lá, người ta phân biệt
được các phần chính sau đây:
+ Biểu bì: thường là những tế bào hình chữ nhật, sắp
xếp theo chiều dài của
cuống, phía ngoài cùng có tầng cutin và có các lỗ khi
nằm xen kẽ, đôi khi biểu bì có
các lông che chở.
+ Mô dày: thường nằm sát lớp biểu bì và có nhiệm
vụ nâng đỡ cho cuống lá.
+ Mô mềm: các tế bào của mô này thường kéo dài
theo trục của cuống lá, chứa
nhiều lạp lục. Ở các cây thủy sinh, trong lớp mô mềm
đồng hóa này có nhiều
khoang khuyến lớn chứa khí (Sen, Súng...), ở một số
cây khác thì tại phần này
Hình 3.16. Các cách mọc của lá
1. Mọc cách (so le); 2. Mọc đối; 3. Mọc đối chéo chữ
thập; 4. Mọc cách
hai hàng; 5. Mọc vòng; 6.Mọc cách hai hàng chồng
lên nhau;
7. Mọc lợp; 8. Mọc chùm.
79
Hình 3.17. Cấu tạo của lá cây thực vật hai
lá mầm (lá trúc đào)
A. Sơ đồ tổng quát;
B. Cấu tạo chi tiết một phần phiến lá
1. Biểu bì trên; 2. Hạ bì trên; 3. Mô giậu
trên; 4. Mô khuyết;
5. Mô giậu dưới; 6. Biểu bì dưới; 7. Phòng
ẩn lỗ khí; 8. Tinh thể canxi oxalat hình
cầu gai; 9. Mô mềm; 10. Libe; 11. Gỗ; 12.
Đám sợi; 13. Mô dày.
thường có chứa các ống tiết (lá Trầu không, Rau
mùi...) hoặc có các tế bào đá
(cuống lá Trang, lá Súng, lá Ngọc lan...).
+ Các bó dẫn: nằm trong khối mô mềm, các bó dẫn
thường xếp thành hình
cung mà mặt lõm quay về phía trên, bó dẫn lớn ở
dưới và các bó dẫn nhỏ quay lên
trên. Các bó dẫn trong cuống lá có thể xếp thành một
cung liên tục. Trong mỗi bó
dẫn, phần gỗ bao giờ cũng nằm ở mặt trong (mặt lõm
của cung) và libe ở ngoài
(mặt lồi của cung), các bó dẫn ở trong cuống lá
thường ít và không đổi, đó là đặc
điểm của các cây đã tiến hóa ở các họ Cà, Hoa môi,
Cúc... cuống lá chỉ có một bó
dẫn mà thôi.
Cuống lá của lá cây thực vật 2 lá mầm chỉ có cấu tạo
sơ cấp chứ không có cấu
tạo thứ cấp vì sự sinh trưởng của lá có hạn.
b. Cấu tạo của phiến lá
Phiến lá của lá cây thực vật 2 lá mầm thường có vị trí
nằm ngang, nên cấu tạo
thường không đồng nhất, thể hiện kiểu lưng - bụng rõ
rệt. Khi cắt ngang qua phiến
lá và thẳng góc với gân chính, người ta phân biệt các
phần chính sau đây:
+ Biểu bì: cả mặt trên và dưới của lá cây đều có các
tế bào biểu bì, các tế bào
biểu bì của lá có cấu tạo khá điển hình: không có lục
lạp, màng ngoài thường dày
hơn màng bên và màng trong và có phủ một lớp
cutin, đôi khi có sáp hoặc có lông.
Biểu bì trên thường không có hoặc có rất ít lỗ khí,
còn ở mặt dưới có rất nhiều
lỗ khí. Số lượng lỗ khí trên một đơn vị diện tích thay
đổi tùy loài và tùy thuộc và
môi trường sống, các tế bào lỗ khí có thể nằm xen kẽ,
đôi khi nằm trên hoặc dưới
một ít so với các tế bào biểu bì hoặc nằm ẩn sâu trong
khoang kín (lá Trúc đào) -
gọi là phòng ẩn lỗ khí.
Biểu bì thường gồm một lớp tế bào, rất ít khi nhiều
lớp (cây Lẻ bạn, Đa), các
tế bào biểu bì thường xếp sít nhau trừ lỗ khí và lỗ
nước.
80
+ Mô cơ bản của lá (thịt lá): nằm giữa 2 lớp biểu bì
trên và dưới của lá là
phần thịt lá. Đó là những tế bào mô mềm đồng hóa,
những tế bào này thường có
màng mỏng, nội chất phân hóa, trong chứa nhiều lạp
lục và hạt tinh bột. Thịt lá có
thể phân biệt thành 2 thành phần chính: mô giậu và
mô khuyết (mô xốp)
- Mô giậu: thường nằm ngay dưới biểu bì trên, gồm 1
đến vài lớp tế bào hình
ống hoặc hình lăng trụ, sắp xếp tương đối sít nhau và
xếp gần như vuông góc với
các tế bào biểu bì. Các tế bào mô giậu chứa nhiều lục
lạp hơn các tế bào mô xốp, do
đó mặt trên của lá thường xanh hơn mặt dưới. Ở một
số cây (Trúc đào, Đước...) mô
giậu có thể có ở mặt dưới của lá cây.
Trong các tế bào mô giậu, các hạt diệp lục thường
xếp theo chiều dọc của các
tế bào, khiến chúng nhận được ánh sáng đều đặn,
cách sắp xếp này rất lợi cho sự
quang hợp của các tế bào có chứa lục lạp, giữa các tế
bào mô giậu vẫn có những
khoảnh hở bé, đó lá chỗ dự trữ khí CO2 cần thiết cho
quang hợp. Mô giậu có một
vai trò rất lớn trong quá trình quang hợp của cây
xanh.
- Mô khuyết (mô xốp): nằm dưới mô giậu và tiếp
giáp với biểu bì dưới của lá,
gồm nhiều lớp tế bào, đó là những tế bào tròn cạnh,
hình dạng không đều, xếp thưa
nhau để hở ra nhiều khoảng trống chứa khí, các
khoảng trống đó thông với phòng
dưới lỗ khí, chính đặc điểm cấu tạo này thuận lợi cho
việc trao đổi khí giữa lá cây
và môi trường, vì nó tạo cho diện tích tiếp xúc khí ở
mô xốp tăng lên rất nhiều. Các
tế bào của mô xốp chứa ít lục lạp hơn các tế bào của
mô giậu nên quá trình quang
hợp xảy ra ở đây yếu hơn và chúng có vai trò chính
trong quá trình trao đổi khí và
thoát hơi nước của lá cây.
Tỷ lệ giữa số lớp tế bào mô giậu và mô xốp thay đổi
tùy điều kiện của môi
trường, nhất là chế độ ánh sáng và nước, sự phân
hóa của 2 loại mô này là một biểu
hiện rõ rệt cấu tạo thích nghi của lá với môi trường
sống.
Tại chỗ tiếp giáp giữa mô giậu và mô xốp có những
tế bào thuộc mô xốp
hình đa giác, chứa ít lục lạp hơn các tế bào khác và
có tác dụng thu góp các sản
phẩm quang hợp rồi chuyển vào phần libe của gân lá
- đó chính là các tế bào thu
góp.
Như vậy, mô giậu chủ yếu làm nhiệm vụ đồng hóa,
còn mô xốp có thể xem
như một mô vận chuyển: chuyển khí và chuyển các
sản phẩm tạo thành trong
quang hợp. Trong trường hợp lá cây chỉ phân hóa
hình thành toàn mô xốp (cây ưa
bóng) mô xốp vẫn phải đảm nhận chức năng quang
hợp.
Ở một số cây (Trúc đào, Đa) ngay dưới lớp biểu bì là
lớp hạ bì, có tác dụng
che chở cho lạp lục của các tế bào bên trong khỏi bị
ánh sáng quá chói. Ở lá cây
mọng nước, các tế bào chứa nước phát triển mạnh, tế
bào nhu mô đồng hóa chỉ gồm
1 đến 2 lớp mỏng ở hai mặt, chúng thường toàn
những tế bào mô giậu, trong trường
hợp này lỗ khí thường phân bố cả ở mặt trên và dưới
của lá cây (lá cây Sam biển -
81
Sesuvium portulacastrum). Ở một số cây, trong phần
thịt lá có rất nhiều tế bào đá
nằm rải rác, đó chính là yếu tố cơ học của lá cây.
+ Các bó dẫn: các bó dẫn nằm trong phần mô đồng
hóa của lá cây, chỗ ranh
giới giữa mô giậu và mô xốp, làm thành hệ gân lá
Các bó mạch trong gân chính (bó dẫn lớn) giống với
những bó mạch trong
thân và cuống lá - đó là những bó mạch sơ cấp,
chồng chất kín. Trong một số
trường hợp là những bó mạch chồng chất kép. Trong
mỗi bó dẫn, gỗ thường hướng
về mặt trên, libe hướng về mặt dưới của lá, cách sắp
xếp này cũng dễ hiểu vì các bó
dẫn của phiến lá chính là phần kéo dài và phân nhánh
của các bó dẫn trong thân và
cành. Phía 2 đầu bó dẫn thường có những tế bào
cương mô, những tế bào này có thể
kéo dài đến tận các tế bào biểu bì. Ngoài những bó
dẫn ở gân chính, nằm rải rác
trong phần thịt lá, cũng có những bó dẫn nhỏ hơn - đó
lá những lát cắt ngang hoặc
cắt dọc của những gân bên, xung quanh những bó
dẫn nhỏ thường có một vòng tế
bào nhu mô không chứa lục lạp, gọi là các tế bào thu
góp, những tế bào này có
nhiệm vụ vận chuyển nước và các sản phẩm đồng
hóa vào các bó dẫn.
Những bó dẫn trong gân chính thường đầy đủ 2 thành
phần libe và gỗ, nhưng
các bó dẫn __________của các gân nhỏ có thể thiếu
các thành phần của mô dẫn, đôi khi chỉ
gồm có quản bào vòng hoặc quản bào xoắn.
+ Hệ thống cơ học của lá:
Hệ thống cơ học của lá bao gồm các thành phần
chính sau đây:
- Các yếu tố mạch, quản bào, sợi gỗ;
- Vòng các tế bào thu góp bao xung quanh các bó dẫn
của gân phụ có tác dụng
làm cho phiến lá thêm vững chắc về mặt cơ học;
- Các tế bào cương mô: gồm các bó sợi đi kèm theo
bó dẫn, các đám cương
mô nằm dưới biểu bì;
- Các thể cứng (tế bào đá) nằm rải rác ở phiến lá và
gân chính;
- Các tế bào hậu mô thường nằm ở 2 đầu bó dẫn của
gân chính và ngay dưới
biểu bì;
- Các tế bào biểu bì: ngoài chức năng bảo vệ cũng
tham gia và chức năng cơ
học của lá cây.