Tài liệu Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam - Chương 4

Chủ trương của Đảng a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa XHCN - Được hình thành từ Đại hội III của Đảng(tháng 9/1960). - 25 năm tiến hành CNH qua 2 giai đoạn: + 1960-1975 : ở miền Bắc •Từ 1 nền kinh tế lạc hậu tiến thăng lên CNXH •Đảng khẳng định tính tất yếu của CNH đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta •Đại hội cũng chi rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động. •Công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. •Mục tiêu cơ bản: xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH •Phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển Công nghiệp (Hội nghị TW lần thứ 7(khóa III))

doc37 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 10413 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam - Chương 4, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÂU 1: CÔNG NGHIỆP HÓA TRƯỚC ĐỔI MỚI *, ĐĂC ĐIỂM CƠ BẢN: 1. Chủ trương của Đảng a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa XHCN - Được hình thành từ Đại hội III của Đảng(tháng 9/1960). - 25 năm tiến hành CNH qua 2 giai đoạn: + 1960-1975 : ở miền Bắc Từ 1 nền kinh tế lạc hậu tiến thăng lên CNXH Đảng khẳng định tính tất yếu của CNH đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta Đại hội cũng chi rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động. Công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Mục tiêu cơ bản: xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH Phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển Công nghiệp (Hội nghị TW lần thứ 7(khóa III)) * Ưu tiên phát triển công nghiêp nặng 1 cách hợp lý * kết hợp chặt chẽ phát triển CN với NN * Ra sức phát triển Công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển Công nghiệp nặng * Ra sức phát triển công nghiệp TW, đồng thời đẩy mạng phát triển Công nghiệp địa phương. + 1975-1885: trên phạm vi cả nước Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên CNXH Đại hội IV của Đảng(12/1976) “Đẩy mạnh Công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Ưu tiên phát triển công nghiêp nặng 1 cách hợp lý trên cở sở phát triển công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế TW vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế TW với địa phương thành một cơ cấu kinh tế thống nhất.” ( nhất trí với nhưng nhận thức cơ bản về CN hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời có chỉ đạo thêm. Sau khi thực hiện Công nghiệp hóa 5 năm(1976-1981) ( từ 1 nền sản xuất nhỏ đi lên, điểu quan trọng là phải xác định đúng bước đi của CN hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Đại hội lần thứ V( tháng 3/1982) khằng định * lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu * phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng * xây dựng và phát triển công nghiệp nặng cần làm có mức độ, vừa sức ( nội dung chính của CN hóa trong chặng đường trước mắt. b. Đặc trưng CN hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng CN hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước XHCN; chủ lực thực hiện CN hóa là NN và các doanh nghiệp NN; vệc phân bổ nguồn nhân lực để CN hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không tôn trọng các quy luật của thị trường. Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. 2) kết quả và ý nghĩa: - Công nghiệp: + Số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần so với năm 1955 + nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, ( có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện than, cơ khí, luyện kim…. - Giáo dục: Có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960 ( có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo CÂU 2:HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN: - Hạn chế + Cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt còn hết sức nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. + Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp chỉ mới bước đầu phát triển, NN chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn còn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế- xã hội. - Nguyên nhân: + khách quan: tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người, sức của cho công nghiệp hóa. + chủ quan: chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư,..v..v ( Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí CÂU 3: .MỤC TIÊU, Ý NGHĨA CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA 3.1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, ph hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất v tinh thần cao, quốc phịng - an ninh vững chắc, dn giu, nước mạnh, x hội cơng bằng, văn minh. - Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng km pht triển, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 3.2. Ý nghĩa công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một l, Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đ tiến hnh cơng nghiệp hĩa. Gọi l CNH TBCN bởi vì nĩ diễn ra ở cc nước Tư bản (Anh, Pháp...), hay cịn gọi đây là cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất. - Cơng nghiệp nhĩa là quá trình biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp, nhưng cái cốt li nhất của cơng nghiệp hĩa l qu trình chuyển lao động thủ công sang lao động sử dụng máy móc: quá trình cơ khí hóa nền kinh tế (thay đổi LLSX kéo theo thay đổi QHSX và các mặt khác). - Hiện đại hóa xuất hiện giữa thế kỷ XX trở lại đây, gắn với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Hiện đại hóa theo nghĩa đơn giản là quá trình nng cấp, thay đổi kỹ thuật từ trình độ thấp lên trình độ cao. - Nước ta thực hiện CNH, HĐH khi nền kinh tế tri thức đ pht triển. "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trị quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống" Trong nền kinh tế tri thức, những nền kinh tế có tác động to lớn tới sự phá triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao) - Đại hội X chỉ r: đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai l, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. - Khác với CNH ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực lượng làm CNh chỉ có Nhà nước,theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. - Thời kỳ đổi mới CHH, HĐH tiến hành trong nền KTTT ĐH XHCN, nhiều thành phần. Do đó CNH, HĐH không chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Thời kỳ trước đổi mới phân bố nguồn lực để CNh được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước. Thời kỳ đổi mới thì vic phn bố nguồn lực chủ yếu bằng cơ chế thị trường. + Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế -> đây là xu hướng kháchquan tất yếu -> phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. - Hội nhập KT quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm: thu hút vố đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý tin tiến của Thế giới -> sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng km ph triển. - Hội nhập kinh tế quốc tế cịn nhằm khai thc thị trường Thế giới để tiêu thụ những sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững - Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu: vốn, khoa học công nghệ, con người, thể chế chính trị v quản lý nh nước, cơ cấu kinh tế thì yếu tố con người là yếu tố quyết định. Con người là quan trọng nhất vì con người có khả năng sáng tạo ra các nhân tố khác, và sử dụng các nhân tố đó. - Muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải đầy tư nhân tố con người => coi giáo dục là quốc sách hàng đầu Phải tạo ra nguồn lực phù hợp, phải đông đảo và đồng bộ. Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Khoa học cơng nghệ cĩ vai trị quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. - Muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển Kinh tế tri thức thì pht triển khoa học cơng nghệ l yếu cầu tất yếu v bức xc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới). Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng x hội, bảo vệ mơi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. - Xây dựng CNXH ở nước ta thực chất là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, x hội cơng bằng, dn chủ, văn minh. Để thực hiện được điều đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. - Sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Câu 4: tại sao vn phải công nghiệp hóa_hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức họat động. - Kinh tế tri thức: Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có định nghĩa của của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra năm 1995: Nền kinh tế tri thức là nên kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. + Định nghĩa trên được hiểu là: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội… + Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ… + Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo ( khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành nào đó. Một nền kinh tế được coi là là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP). - Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số. - Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương diện được phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. - Trong nền kinh tế tri thức, nhuồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển cong người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. - Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. * Yêu cầu đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa: - Nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới; - Kết hợp quá trình phát tuần tự với đi tắt đón đầu. - CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức - Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại - Từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Câu 5 : những hiểu biết của bạn vể cơ chế bao cấp thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật. Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986, tức là trước thời kỳ Đổi mới. Đây được coi như một giai đoạn thất bại và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20. CÂU 6: SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG TỪ ĐẠI HỘI 9 ĐẾN ĐẠI HỘI 10 Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Qua quá trình phát triển nhận thức, cũng như tư duy lý luận về các thành phần kinh tế ngày một hoàn chỉnh, đến Đại hội X của Đảng, nền kinh tế nước ta được xác lập gồm 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài(*). Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định số lượng các thành phần kinh tế tồn tại trong nền kinh tế, mà còn xác lập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về các thành phần kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới tư duy kinh tế về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua tính dân chủ trong hoạt động kinh tế, mọi cá nhân đều có quyền tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách bình đẳng theo pháp luật. Qua hơn 25 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Đảng, đã xác định: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội X làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế không chỉ độc tôn bàn tay kế hoạch của Nhà nước, mà phải được vận hành bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước. Thực hiện cơ chế thị trường đã khuyến khích sự làm giàu hợp pháp, tháo gỡ sự kìm hãm sản xuất và lưu thông. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải thiện đời sống nhân dân. Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế thật sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI của Đảng khởi xướng. Đến Đại hội VII, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được khẳng định là chủ trương lớn, chủ đạo của đường lối đổi mới của nước ta. Đại đội IX của Đảng đã khẳng định chủ trương: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại thành tựu to lớn cho đất nước. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh tế, tiền tệ thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998 và đặc biệt năm 2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế của các thế lực thù địch. Hiện chúng ta đã có quan hệ thương mại với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với gần 100 quốc gia và có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc với 81 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch chống nước ta, đều coi Việt Nam là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định, là nơi đầu tư hết sức lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, không ít quốc gia lớn, có tiềm lực kinh tế xem Việt Nam là đối tác kinh tế chiến lược. Những thành tựu đạt được trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng trong thời gian qua là hết sức to lớn, có thể ví như một cuộc cách mạng thật sự về kinh tế đối với nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành tựu bước đầu, để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách quan với các yếu tố cơ bản sau: Một là, sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là sử dụng có hiệu quả tri thức và những sáng tạo mới của con người để đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và công nghệ. Dưới quan điểm về kinh tế phát triển, kinh tế tri thức là kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức, là động lực chủ yếu nhất của tăng trưởng, tạo ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế và là nền kinh tế mở ra khả năng phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế tri thức
Tài liệu liên quan