Quyền sởhữu trí tuệtồn tại chủyếu theo luật pháp quốc gia. Cái được gọi là quyền 
sởhữu trí tuệtoàn cầu (quốc tế) có nghĩa là một tập hợp các quyền có khảnăng được thực 
thi theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, có thểnói rằng ởhầu hết các nước, quyền mang 
tính chất quốc gia đó không chỉtồn tại nhưmột hệquảcủa nội luật mà còn là các nghĩa 
vụquốc tế đa phương, song phương hoặc khu vực. Ởmột sốhiệp hội khu vực nhưLiên 
minh châu Âu, pháp luật khu vực có thểcó hiệu lực áp dụng trực tiếp tại các quốc gia 
hoặc có thể đặt ra các tiêu chuẩn vềsởhữu trí tuệcho pháp luật quốc gia. Luật sởhữu trí 
tuệquốc tếcó vai trò quan trọng trong việc hài hoà hoá các quy phạm pháp luật quốc gia 
vềnội dung và thủtục. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp Hiệp định vềcác khía 
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sởhữu trí tuệ(Hiệp định TRIPS) của WTO, 
trong đó đặt ra các tiêu chuẩn mà pháp luật quốc gia phải quy định đối với việc bảo hộ
quyền sởhữu trí tuệnhưlà một điều kiện đểtrởthành thành viên của WTO.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 52 trang
52 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2275 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu giảng dạy về sở hữu trí tuệ: Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY 
Professor Michael Blakeney 
Queen Mary Intellectual Property Research Institute 
University of London 
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 
Giáo sư Michael Blakeney 
Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary 
Đại học London 
Provided and translated by 
the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II) 
Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) 
dịch và cung cấp 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
2
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp 
Bài 8. Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ 
1. Luật quốc tế và quyền sở hữu trí tuệ 
1.1 Giới thiệu 
Quyền sở hữu trí tuệ tồn tại chủ yếu theo luật pháp quốc gia. Cái được gọi là quyền 
sở hữu trí tuệ toàn cầu (quốc tế) có nghĩa là một tập hợp các quyền có khả năng được thực 
thi theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, có thể nói rằng ở hầu hết các nước, quyền mang 
tính chất quốc gia đó không chỉ tồn tại như một hệ quả của nội luật mà còn là các nghĩa 
vụ quốc tế đa phương, song phương hoặc khu vực. Ở một số hiệp hội khu vực như Liên 
minh châu Âu, pháp luật khu vực có thể có hiệu lực áp dụng trực tiếp tại các quốc gia 
hoặc có thể đặt ra các tiêu chuẩn về sở hữu trí tuệ cho pháp luật quốc gia. Luật sở hữu trí 
tuệ quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hài hoà hoá các quy phạm pháp luật quốc gia 
về nội dung và thủ tục. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp Hiệp định về các khía 
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO, 
trong đó đặt ra các tiêu chuẩn mà pháp luật quốc gia phải quy định đối với việc bảo hộ 
quyền sở hữu trí tuệ như là một điều kiện để trở thành thành viên của WTO. 
Vì vậy, luật quốc tế có vai trò hiến định quan trọng cả ở khía cạnh quy định các thủ 
tục và thể thức cho việc đàm phán về các tiêu chuẩn và chuẩn mực của quyền sở hữu trí 
tuệ mang tính quốc gia và việc hài hoà hoá các tiêu chuẩn pháp luật quốc gia và khu vực 
về sở hữu trí tuệ. Việc thừa nhận và áp dụng các chuẩn mực chung về sở hữu trí tuệ sẽ 
được tạo điều kiện thuận lợi hơn khi các nước có thể tin tưởng rằng các nước đối tác cũng 
có các chuẩn mực pháp lý tương tự. 
1.2 Nguồn pháp lý của luật sở hữu trí tuệ quốc tế 
Nguồn pháp lý của luật quốc tế áp dụng cho các chế định sở hữu trí tuệ quốc tế 
cũng như tất cả các lĩnh vực luật quốc tế khác được quy định một cách rõ ràng tại Điều 38 
Quy chế Toà án quốc tế. Điều này quy định rằng trong quá trình giải quyết các tranh chấp, 
Toà án phải áp dụng: 
a. các điều ước quốc tế, bất kết là chung hay riêng, thiết lập các quy tắc được 
thừa nhận một cách rõ ràng bởi các nước thành viên; 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
3
b. tập quán quốc tế, với danh nghĩa là thực tiễn chung được chấp nhận như là 
pháp luật; 
c. các nguyên tắc chung của pháp luật được các quốc gia văn minh thừa nhận; 
d. tuỳ thuộc vào các quy định của Điều 59 (trong đó cho phép toà án triệu tập 
nhân chứng và chuyên gia), các phán quyết của toà án và các bài giảng của 
các chuyên gia nghiên cứu có uy tín nhất của các nước, với danh nghĩa là 
công cụ bổ sung để xác định các quy tắc pháp luật. 
Là một phần Quy chế của Toà án thường trực quốc tế của Liên hiệp các quốc gia 
(Permanent Court of International Justice of the League of Nations), điều khoản này đã 
được đưa vào Quy chế của Toà án quốc tế năm 1945. Điều khoản này liệt kê một danh 
mục các nguồn hiện đại cơ bản của luật quốc tế, mặc dù không chỉ ra thứ tự ưu tiên về 
mặt hình thức của các nguồn này. Luật sở hữu trí tuệ quốc tế chủ yếu bắt nguồn từ luật 
điều ước, tuy nhiên, với tầm quan trọng ngày càng gia tăng của việc giải quyết tranh chấp, 
các nguyên tắc pháp luật chung ngày càng trở nên quan trọng hơn. Những ý kiến khẳng 
định rằng các nguyên tắc về quyền con người có tính ưu việt so với luật sở hữu trí tuệ 
đang đòi hỏi phải xem xét lại các nguồn quốc tế truyền thống của luật sở hữu trí tuệ. 
1.2.1 Luật điều ước 
Nền tảng của chế định sở hữu trí tuệ quốc tế là Công ước Pari về bảo hộ sở hữu 
công nghiệp năm 1883 và Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 
1886. Sự phát triển từng bước của chế định sở hữu trí tuệ quốc tế được bắt đầu bằng sự ra 
đời của các điều ước đặc biệt bắt nguồn từ hai điều ước nêu trên. Hai điểm xuất phát quan 
trọng của quá trình này là sự ra đời của Công ước Bản quyền toàn cầu tồn tại song song 
với Công ước Berne và gần đây là sự ra đời của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến 
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO. 
Các quy tắc của luật quốc tế điều chỉnh việc giải thích và áp dụng các điều ước 
được quy định tại Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969. Hầu hết các nước đã tham 
gia công ước này. Hoa Kỳ là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt, mặc dù nước này đã ngụ ý 
chấp nhận các điều khoản của công ước vì nó phản ánh luật tập quán quốc tế áp dụng 
cho các điều ước quốc tế. 
Mặc dù chưa được khẳng định một cách chính thức là các điều ước về việc thành 
lập các tổ chức khu vực được điều chỉnh bởi Công ước Viên nhưng trên thực tế thì có thể 
được hiểu là như vậy. 
1.2.2 Luật tập quán quốc tế 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
4
Không giống như những lĩnh vực luật khác, luật sở hữu trí tuệ buộc phải phát triển 
khá nhanh do sự thay đổi của công nghệ. Do đó, sự tiến triển theo từng bước của luật sở 
hữu trí tuệ quốc tế thông qua việc áp dụng các nguyên tắc tập quán không xảy ra trong 
lĩnh vực này. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp sự thay đổi về luật pháp là quá chậm, 
không theo kịp sự phát triển của công nghệ thì việc thiết lập các tiêu chuẩn riêng trở nên 
ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp ảnh hưởng 
của internet đến luật sở hữu trí tuệ, khi mà quy định về đăng ký tên miền được dựa trên cơ 
sở tự điều chỉnh. 
Một vấn đề chưa được nghiên cứu là phạm vi áp dụng các tập quán pháp đối với 
việc bảo hộ tài sản thực và các động sản hữu hình cho tài sản vô hình. Ngoài ra, cần phải 
nghiên cứu việc áp dụng các nguyên tắc của tập quán pháp quốc tế như nguyên tắc thực 
hiện nghiêm chỉnh và tận tâm các cam kết quốc tế (nguyên tắc pacta sunt servanda1) và 
sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các quốc gia. 
1.2.3 Tiền lệ pháp 
Tiền lệ pháp đã được chứng minh không phải là một nguồn quan trọng của luật sở 
hữu trí tuệ quốc tế. Chưa từng có vụ việc nào về sở hữu trí tuệ được đưa ra trước Toà án 
quốc tế hoặc là cơ quan tiền thân của Toà án này (the Permanent Court of International 
Justice). Tình trạng này đã bắt đầu thay đổi với việc xét xử các hành vi vi phạm Hiệp định 
TRIPS bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, trên cơ sở các đề xuất của một ban 
bồi thẩm (panel) hoặc Cơ quan giải quyết khiếu nại (Appellate Body). Mặc dù các lập 
luận của ban bồi thẩm hoặc cơ quan giải quyết khiếu nại không có giá trị ràng buộc nhưng 
các ban bồi thẩm và cơ quan giải quyết khiếu nại về sau vẫn buộc phải xem xét những lập 
luận đó. Đã từng có ý kiến cho rằng cần thúc đẩy các quy tắc pháp lý trong hệ thống kinh 
tế quốc tế nếu các toà án quốc gia và khu vực xét xử các vấn đề thuộc nội dung của các 
Hiệp định của WTO về hiệu lực của các quyết định của các ban bồi thẩm và cơ quan giải 
quyết khiếu nại.2 
Các toà án quốc gia và khu vực có các nguồn thẩm quyền xét xử cơ bản trong lĩnh 
vực sở hữu trí tuệ, mặc dù không phải là các nguồn luật quốc tế chủ yếu theo Điều 38 
Quy chế Toà án quốc tế, nhưng những nguồn này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo 
thành tập hợp các nguyên tắc chung của luật quốc tế. 
1.2.3 Các công trình nghiên cứu pháp lý 
Điều 38 Quy chế Toà án quốc tế cũng đề cập đến các công trình nghiên cứu pháp 
lý của các luật gia có trình độ cao như là một nguồn thứ hai của luật quốc tế. Toà án ở các 
nước theo hệ thống luật chung có khuynh hướng dễ dàng chấp nhận việc tham khảo các 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
5
công trình nghiên cứu khoa học hơn là các toà án ở những nước theo hệ thống luật dân sự. 
Trong lĩnh vực luật sở hữu trí tuệ quốc tế đang phát triển nhanh chóng, các công trình 
nghiên cứu của các luật gia có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tính chắc 
chắn và chặt chẽ. 
1.2.4 Các nguyên tắc pháp luật chung 
Bên cạnh luật điều ước, các nguyên tắc pháp luật chung là nguồn quan trọng nhất 
của luật sở hữu trí tuệ quốc tế. Một số nguyên tắc chung quan trọng về thủ tục xét xử đã 
được đưa vào các quy định về thực thi của Hiệp định TRIPS, chẳng hạn yêu cầu tại Điều 
41.2 rằng “các thủ tục liên quan đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải công bằng và 
hợp lý” và các thủ tục này “không được phức tạp một cách không cần thiết hoặc tốn kém, 
hoặc đòi hỏi những thời hạn vô lý hoặc những sự chậm trễ không được bảo đảm”. Tương 
tự, yêu cầu được quy định tại Điều 41.3 rằng các quyết định “về vụ việc phải được làm 
thành văn bản và có căn cứ” và rằng các quyết định này “phải được chuyển ít nhất là cho 
các bên tham gia vụ kiện một cách không chậm trễ” là các nguyên tắc về thủ tục mà 
người ta cho rằng đã được chấp nhận chung. Thủ tục đúng đắn được quy định trong yêu 
cầu của Hiệp định TRIPS tại Điều 41.3 rằng “các quyết định phán xử vụ việc chỉ được 
dựa vào chứng cứ mà các bên đều đã được tạo cơ hội trình bày ý kiến về chứng cứ đó”. 
Điều 42 Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng các thủ tục phải đúng đắn và công bằng 
trong đó bị đơn phải có quyền được “thông báo bằng văn bản một cách kịp thời và chi 
tiết, trong đó nêu cả căn cứ của các yêu cầu đó”. Điều này yêu cầu rằng các bên “phải có 
quyền biện minh cho yêu cầu của mình và có quyền đưa ra mọi chứng cứ thích hợp” cũng 
gần như đã trở thành một nguyên tắc pháp luật chung, tương tự như yêu cầu các thủ tục 
không được đòi hỏi “quá mức việc đương sự buộc phải có mặt tại toà”. 
Về cơ bản, các nguyên tắc chung về sự trung thực và công bằng gần như tạo thành 
một phần của luật sở hữu trí tuệ quốc tế về nội dung. Học thuyết về tính cân xứng với ý 
nghĩa rằng luật pháp không được đặt ra các nghĩa vụ vượt quá những gì được coi là cần 
thiết để giải quyết các tình huống từ đó tạo thành một nguyên tắc pháp luật chung chi phối 
hoạt động của Toà án châu Âu. 
1.3 Các tổ chức quốc tế 
Việc quản lý các khía cạnh của định chế sở hữu trí tuệ quốc tế được thực hiện bởi 
một số tổ chức quốc tế và tổ chức liên chính phủ được thành lập theo các điều ước quốc 
tế. Các tổ chức chính về sở hữu trí tuệ ở cấp quốc tế và liên chính phủ là Tổ chức Sở hữu 
trí tuệ thế giới (WIPO) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 
Một số khía cạnh đặc biệt của luật sở hữu trí tuệ quốc tế được giao cho một số tổ 
chức quốc tế chịu trách nhiệm: bản quyền và văn hoá dân gian: Tổ chức Văn hoá, Khoa 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
6
học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO); giống cây trồng mới: Liên minh bảo hộ 
giống cây trồng (UPOV); tiếp cận tài nguyên di truyền: Tổ chức Nông Lương, Hội nghị 
các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (CBD), Chương trình môi trường Liên hợp 
quốc (UNEP); công nghệ y học: Tổ chức Y tế thế giới (WHO); quyền kề cận: Liên minh 
Viễn thông quốc tế; chuyển giao công nghệ: Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp 
quốc (UNIDO); chuyển giao công nghệ và ảnh hưởng của quyền sở hữu trí tuệ đối với các 
nước đang phát triển: Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD). 
Một số tổ chức khu vực cũng thiết lập các chuẩn mực và cơ cấu về sở hữu trí tuệ. 
Những tổ chức này bao gồm Tổ chức Andean Pact, Liên minh châu Âu (Cơ quan Sáng 
chế châu Âu (EPO) và Cơ quan hài hoà hoá thị trường nội địa (OHIM), Hiệp hội thương 
mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), MERCOSUR và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 
(ASEAN). Ngoài ra, các tổ chức sở hữu trí tuệ đặc biệt đã được thành lập với chức năng 
trong phạm vi khu vực. Những tổ chức này bao gồm Tổ chức Sáng chế khu vực châu Phi 
(ARIPO) và Cơ quan Sáng chế Á-Âu. Trong mỗi trường hợp, các tổ chức này được thành 
lập theo các điều ước quốc tế điều chỉnh chức năng và thẩm quyền của tổ chức này. 
Vì mỗi tổ chức trong số này đều được thành lập theo các điều ước quốc tế, phạm vi 
và hiệu lực hoạt động của tổ chức đó cũng sẽ được quy định theo các nguyên tắc giải 
thích điều ước quốc tế. Trong trường hợp Liên minh châu Âu, tổ chức lâu đời nhất trong 
số các tổ chức khu vực, các điều ước thành lập Liên minh có vai trò hiến định quan trọng, 
trong đó các nguyên tắc chung của luật công pháp quốc tế được thay thế bởi các nguyên 
tắc hiến định. 
Tác động có thể dự đoán được của chế định sở hữu trí tuệ toàn cầu đối với mọi 
khía cạnh của quyền con người đã làm nảy sinh vấn đề về mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ 
và quyền con người. Trong báo cáo Phát triển con người và quyền con người, Chương 
trình phát triển Liên hợp quốc đã cho rằng các khía cạnh của Hiệp định TRIPS có thể 
không phù hợp với Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá và Công ước 
quốc tế về quyền dân sự và chính trị3. 
Ngày 17 tháng 8 năm 2000, Tiểu ban bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Liên 
hợp quốc, trên cơ sở nhận thức rằng: 
…có sự xung đột thực tế và tiềm tàng giữa việc thi hành Hiệp định TRIPS và việc 
thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá liên quan đến, ngoài những vấn 
đề khác, những trở ngại cho hoạt động chuyển giao công nghệ cho các nước đang 
phát triển, hệ quả của việc có được quyền hưởng thực phẩm, quyền đối với giống 
cây trồng mới và việc cấp độc quyền cho các cơ thể sinh vật bị biến đổi gen, “sinh 
tặc” (bio-piracy) và sự suy giảm việc kiểm soát của cộng đồng (đặc biệt là các 
cộng đồng bản địa) đối với các nguồn tài nguyên di truyền và tài nguyên thiên 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
7
nhiên và các giá trị văn hoá của họ, và những hạn chế tiếp cận các loại dược phẩm 
được bảo hộ độc quyền và quyền được chăm sóc sức khoẻ, 
đã thông qua một nghị quyết kêu gọi giải quyết vấn đề ảnh hưởng của Hiệp định TRIPS 
đến vấn đề quyền con người và quyền của các cộng đồng, trong đó có nông dân và những 
nhóm người bản địa trên toàn thế giới. Nghị quyết này lưu ý rằng “những xung đột rõ 
ràng” giữa các quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Hiệp định TRIPS và luật nhân 
quyền quốc tế, đặc biệt là “việc thi hành Hiệp định TRIPS không phản ánh một cách đầy 
đủ bản chất cơ bản và tính không thể phân chia của tất cả các quyền con người, bao gồm 
quyền của tất cả mọi người được hưởng lợi từ sự tiến bộ khoa học và việc ứng dụng các 
tiến bộ này, quyền được bảo vệ sức khoẻ, quyền đối với thực phẩm và quyền tự quyết 
(Điều 2). Nghị quyết này lưu ý rằng “tất cả các Chính phủ phải ưu tiên thực hiện các 
nghĩa vụ về quyền con người trong các chính sách và thoả thuận về kinh tế” (Điều 3). 
Mặc khác, sự bảo đảm được quy định tại Điều 27(2) của Tuyên bố toàn cầu về 
quyền con người rằng “Tất cả mọi người đều có quyền được bảo vệ lợi ích về vật chất và 
tinh thần có được từ các sản phẩm khoa học, văn học và nghệ thuật mà họ là tác giả” hàm 
ý rằng bản thân sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã có thể là một yếu tố của quyền con 
người. Điều này được nhấn mạnh trong lời văn tương tự của Điều 15.1.c Công ước quốc 
tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. 
Việc áp dụng sở hữu trí tuệ có vẻ như mâu thuẫn với các công ước về quyền con 
người nêu trên có thể được điều hoà bằng việc đặt vai trò của quyền con người ở vị trí 
tương phản như một sự biện hộ có cơ sở cho việc bảo hộ sở hữu trí tuệ và tác động của 
các tiêu chuẩn về quyền con người trong việc định hướng các quyền sở hữu trí tuệ hiện 
có. Mối quan ngại của Tiểu ban của Liên hợp quốc chủ yếu liên quan đến khả năng ảnh 
hưởng bất lợi của quyền sở hữu trí tuệ đến việc tiếp cận thuốc. Về vấn đề này, các bên ký 
kết Tuyên bố Doha về sức khoẻ cộng đồng năm 2001 đã chỉ ra rằng quyền đối với sáng 
chế liên quan đến các loại thuốc chống HIV-AIDS cần nhường chỗ cho khả năng tiếp cận 
không hạn chế các sản phẩm này. 
Vấn đề trước đó (về mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ và quyền con người) được 
minh chứng bởi nhu cầu của các nhóm dân cư bản địa mà việc bảo hộ sở hữu trí tuệ được 
dựng lên bao quanh các tri thức truyền thống của các nhóm dân cư này.4 
1.4 Giải thích các điều ước quốc tế 
Các nguyên tắc cơ bản về việc giải thích điều ước trong luật quốc tế được quy định tại 
Điều 31 và 32 của Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế. Điều 31(1) quy định rằng 
một điều ước “phải được giải thích một cách đúng đắn, phù hợp với nghĩa thông thường 
của các điều khoản của điều ước trong ngữ cảnh của chúng và phù hợp với các mục tiêu 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
8
của điều ước”. Từ “ngữ cảnh” nhằm mục đích giải thích một điều ước, được định nghĩa 
tại Điều 31(2) bổ sung cho văn bản, bao gồm cả lời nói đầu và các phụ lục, bao gồm: 
(a) thoả thuận bất kỳ liên quan đến điều ước được lập giữa tất cả các bên liên quan đến 
việc ký kết điều ước; 
(b) văn kiện bất kỳ được một bên hoặc các bên làm ra liên quan đến việc ký kết điều 
ước và được chấp nhận bởi các bên khác như là một văn kiện liên quan đến điều 
ước. 
Đồng thời phải xem xét, phù hợp với Điều 31(3), cùng với ngữ cảnh, 
(a) thoả thuận tiếp theo bất kỳ giữa các bên về việc giải thích điều ước hoặc việc áp 
dụng các điều khoản của điều ước; 
(b) thực tiễn bất kỳ nảy sinh về sau trong việc áp dụng điều ước tạo thành thoả thuận 
của các bên về việc giải thích điều ước; 
(c) quy tắc phù hợp bất kỳ của luật quốc tế áp dụng cho các quan hệ giữa các bên; 
Điều 31(4) cho phép các bên tham gia một điều ước đưa ra nghĩa cụ thể cho một thuật 
ngữ hay điều khoản. 
Theo Điều 32, có thể cần đến các công cụ bổ sung cho việc giải thích, bao gồm quá 
trình chuẩn bị điều ước và bối cảnh ký kết điều ước, để khẳng định nghĩa nảy sinh trong 
quá trình áp dụng Điều 31 hoặc để xác định nghĩa khi việc giải thích theo Điều này lại tạo 
ra lưỡng nghĩa hoặc sự không rõ nghĩa hoặc dẫn tới kết quả vô lý hoặc rõ ràng là bất hợp 
lý. 
Những nguyên tắc giải thích điều ước này trong bối cảnh sở hữu trí tuệ đã được sử 
dụng trong một số quyết định của Ban bồi thẩm và Cơ quan giải quyết khiếu nại liên quan 
đến các tranh chấp nảy sinh từ Hiệp định TRIPS. 
(a) Tranh chấp về việc bảo hộ sáng chế dành cho dược phẩm giữa Hoa Kỳ và Ấn 
Độ (1996) 
Tranh chấp này liên quan đến một đơn kiện từ Hoa Kỳ rằng Ấn Độ không thiết lập 
cơ chế “hộp thư” để nhận đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế theo như yêu cầu của 
Điều 70.8 Hiệp định TRIPS và rằng Ấn Độ đã không dành độc quyền tiếp thị như yêu cầu 
của Điều 70.9. Cơ chế hộp thư được dành cho các nước đang phát triển trong giai đoạn 
chuyển tiếp, trước khi các nghĩa vụ mang tính nội dung về sáng chế của Hiệp định TRIPS 
có hiệu lực ở những nước này. Khi đặt ra các tiêu chuẩn áp dụng cho việc giải thích Hiệp 
định TRIPS, Ban bồi thẩm đã cố gắng áp dụng các nguyên tắc giải thích theo tập quán của 
công pháp quốc tế như được quy định trong Công ước Viên.5 Ban bồi thẩm đã phán quyết 
rằng việc giải thích đúng đắn Hiệp định TRIPS đòi hỏi “bảo vệ những mong muốn chính 
 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 
9
đáng xuất phát từ sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” .6 Ngoài ra, Ban bồi thẩm lưu ý rằng vì 
Hiệp định TRIPS là một trong số những Hiệp định Thương mại Đa phương được đàm 
phán trong khuôn khổ GATT 1947 nên Hiệp định này có giá trị ràng buộc các thành viên 
của GATT, những nước cũng đã thừa nhận nguyên tắc về sự mong muốn chính đáng. 
Điểm (a) Điều 70.8 Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng nếu đến thời điểm Hiệp định 
WTO bắt đầu có hiệu lực, một Thành viên chưa quy định việc bảo hộ sáng chế cho dược 
phẩm và các sản phẩm hoá nông thì thành viên đó phải quy định phương thức nộ