Bài 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là động lực
chính của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng
cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay. Đặc biệt hiện nay trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của giai cấp công nhân hết
sức quan trọng. Đó là yêu cầu khách quan đối với giai cấp công nhân, nhằm bảo
đảm cho giai cấp công nhân đảm đương là vị trí trung tâm của cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh nhằm đáp ứng yêu
cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (tháng 6 năm 1996) chỉ rõ: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi
mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay
nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp
và ý thức tổ chức kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng
cao làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
76 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu hướng dẫn học tập Luật công đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
________________________________________________
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
LUẬT CÔNG ĐOÀN
Biên soạn: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên
Lưu hành nội bộ
Năm 2011
1
MỤC LỤC
Trang
Lời giới thiệu ...............................................................................................2
Bài 1: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam ...........................................................3
Bài 2: Tổng quan về lịch sử ra đời và chức năng
của Công đoàn Việt Nam .................................................................7
Bài 3: Hệ thống tổ chức Công đoàn và tài chính Công đoàn ....................24
Bài 4: Đoàn viên, cán bộ công đoàn và đại hội công đoàn các cấp ..........31
Bài 5: Nhiệm vụ và quyền hạn của Công đoàn các cấp ............................38
Bài 6: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp ...................52
Bài 7: Công đoàn với công tác vận động lao động nữ .............................59
Bài 8: Công tác đối ngoại và đổi mới hoạt động Công đoàn
trong giai đoạn hiện nay ................................................................66
Danh mục tài liệu tham khảo .....................................................................74
2
LỜI GIỚI THIỆU
Luật Công đoàn là môn học trong chương trình đào tạo Cử nhân Luật của
Khoa Luật – Đại học Cần Thơ.
Giáo trình Luật Công đoàn được biên soạn nhằm mục đích giảng dạy và học
tập môn học Luật Công đoàn, bên cạnh đó đây còn là tài liệu để cán bộ công đoàn
các ngành, các cấp và người lao động tham khảo vận dụng vào thực tiễn hoạt động
của tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn.
Họat động công đoàn đã và đang được đổi mới phù hợp với chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn, do vậy, yêu cầu
xây dựng được giáo trình thật hoàn thiện là điều rất khó. Trong quá trình nghiên
cứu và giảng dạy, giáo trình sẽ được tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh để đáp ứng yêu
cầu phát triển của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Việt Nam.
Trong quá trình biên soạn có thể còn nhiều khiếm khuyết nhất định, tác giả
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Tác giả
Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên
Giảng viên Khoa Luật – Đại học Cần Thơ
3
Bài 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là động lực
chính của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng
cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay. Đặc biệt hiện nay trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của giai cấp công nhân hết
sức quan trọng. Đó là yêu cầu khách quan đối với giai cấp công nhân, nhằm bảo
đảm cho giai cấp công nhân đảm đương là vị trí trung tâm của cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh nhằm đáp ứng yêu
cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (tháng 6 năm 1996) chỉ rõ: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi
mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay
nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp
và ý thức tổ chức kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng
cao làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng và đi đầu trong sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Vào giữa thế kỷ XIX, trên cơ sở phân tích sâu sắc nền kinh tế đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã rút ra kết luận khoa học: Giai cấp công nhân là
người lãnh đạo cách mạng thủ tiêu xã hội tư bản chủ nghĩa và xây dựng thành công
xã hội XHCN.
Là đại biểu cho phương thức sản xuất mới và lại là giai cấp tiên tiến, cách
mạng nhất trong xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đảm nhận trọng trách lãnh
đạo cách mạng, xây dựng một xã hội mới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Tuy chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn
có đầy đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng và trong thực tế đã giữ vai trò ấy một
cách xuất sắc.
Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế (tiêu biểu cho
lực lượng sản xuất mới, triệt để cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao), giai cấp
công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như trưởng thành trước giai cấp
tư sản dân tộc, ra đời khi có sự khai thác đầu tiên của thực dân Pháp trên đất nước
4
ta và gắn liền với nền kinh tế đó, có mối liên hệ tự nhiên, mật thiết với nông dân,
sớm có Đảng trung thành với học thuyết Mác – Lênin lãnh đạo cho nên không bị
chia rẽ về tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
nước ta.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
XHCN hiện nay giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực
lượng quan trọng đi đầu và trực tiếp tham gia quá trình chuyển đổi từ nền sản xuất
thủ công nghiệp sang nền sản xuất có công nghệ hiện đại. Bởi vậy phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đồng thời với việc phát huy vai trò lãnh đạo và nòng
cốt của giai cấp công nhân.
2. Giai cấp công nhân là nền tảng của liên minh công – nông – trí thức và của
khối đại đoàn kết dân tộc
Xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Đảng ta coi liên minh công – nông – trí thức là một vấn đề chiến
lược, là một điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nông dân lao động nước ta là lực lượng cách mạng rất đông đảo, nhưng giai
cấp nông dân phải đi cùng với giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân thì mới có thể tự giải phóng và mới đi lên CNXH được. Mặt khác, giai
cấp công nhân đánh giá đầy đủ vai trò cách mạng to lớn của nông dân lao động,
luôn coi họ là người bạn đồng minh tự nhiên đáng tin cậy, cùng đoàn kết, giáo dục
và lãnh đạo họ làm cách mạng.
Trong xây dựng đất nước, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức tạo thành nòng cốt của khối đoàn kết toàn dân tập hợp trong
mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong liên minh công – nông – trí thức, giai cấp công nhân giữ vị trí trung
tâm để phát triển các mối quan hệ liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị với
nông dân; thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành
thị và nông thôn, từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, mở rộng
thành phần công nhân trong lao động nông nghiệp. Giai cấp công nhân vươn lên
làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời động viên đội ngũ trí thức
đem hết tâm huyết và tài năng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng xã hội mới.
3. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước
Mỗi chính đảng đều có cơ sở chính trị - xã hội của mình, đó trước hết là lực
lượng chính trị - xã hội mà chính đảng đó đại biểu. Điều quan trọng là lực lượng
chính trị - xã hội đó giữ vai trò như thế nào trong quy luật phát triển xã hội, đối với
các giai cấp, đội ngũ cũng như cộng đồng xã hội.
5
Trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là lực lượng trung tâm của thời
đại, giai cấp công nhân là lực lượng chính trị - xã hội quyết định chiều hướng phát
triển xã hội, theo quy luật phát triển của nhân loại.
Cơ sở chính trị - xã hội của Đảng là giai cấp công nhân cũng có nghĩa Đảng
cộng sản vừa là sản phẩm, vừa là đội tiên phong, là bộ phận tiên tiến nhất của giai
cấp công nhân. Mặt khác, giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng
cộng sản còn có một cơ sở chính trị - xã hội nữa là quốc gia, dân tộc, Tổ quốc.
Giai cấp công nhân có nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ chính quyền Nhà nước
của mình, gương mẫu chấp hành mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước, không
ngừng phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, góp phần vào việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
4. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh
Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, chỉ
trở thành giai cấp lãnh đạo khi giác ngộ sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp và
chỉ khi giai cấp công nhân được tổ chức chặt chẽ, được dẫn dắt bởi một Đảng tiên
phong trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tầm nhìn sâu rộng, tổ chức chặt chẽ nghiêm
minh, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo giỏi, có khả năng đề ra và chỉ đạo thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, xã hội,
tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi thử
thách.
Để làm cho Đảng trong sạch, Đảng cần loại bỏ những phần tử thoái hóa biến
chất, Đảng kết nạp những quần chúng ưu tú từ phong trào quần chúng vào tổ chức
Đảng.
5. Chú trọng tạo động lực cho giai cấp công nhân vươn lên đi đầu trong sự
nghiệp đổi mới, không ngừng phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, góp
phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Động lực trực tiếp đối với công nhân là những lợi ích thiết thực về việc làm
và các yêu cầu về văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước, Công đoàn cần quan tâm
thường xuyên và có những giải pháp cụ thể khắc phục hiện tượng thiếu việc làm,
thu nhập thấp, ít được hưởng thụ văn hóa của công nhân.
Trong giai đoạn mới, để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, điều trước
hết là phải tổ chức tốt việc đào tạo nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp,
khả năng tiếp cận với công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đồng thời nâng cao
giác ngộ giai cấp, bồi dưỡng truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, ý
6
thức trách nhiệm cho công nhân, tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện làm việc,
thực hiện đúng pháp luật lao động, xây dựng cơ chế bảo đảm quyền của công dân
trong từng doanh nghiệp, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa của công nhân, đẩy
mạnh thi đua xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân, lao động.
6. Xây dựng giai cấp công nhân là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng trong
thời kỳ phát triển mới
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân
là một điều kiện quyết định cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai cấp công
nhân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời
gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với công nhân lao động.
Toàn thể Đảng viên có trách nhiệm xây dựng giai cấp công nhân và đẩy
mạnh phong trào công nhân, xây dựng tổ chức công đoàn – tổ chức chính trị-xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân, tích cực tham gia sinh hoạt công đoàn, gương mẫu
thực hiện công tác công đoàn, thể hiện vai trò, trách nhiệm vận động công nhân của
Đảng.
7. Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn nhằm thực hiện tốt đường lối vận
động công nhân của Đảng
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công
nhân và của người lao động Việt Nam. Công đoàn mang tính chất giai cấp của giai
cấp công nhân và tính chất quần chúng.
Công đoàn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo tổ chức Công
đoàn nhằm phát huy vai trò của Công đoàn. Công đoàn là sợi dây chuyền nối liền
Đảng với quần chúng công nhân, lao động. Công đoàn là chỗ dựa, là người cộng
tác của Nhà nước.
Công đoàn có nhiệm vụ vận động, tổ chức, tập hợp, giáo dục và xây dựng
đội ngũ công nhân, lao động thành lực lượng cách mạng thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Những quan điểm trên đây của Đảng là những định hướng lớn cho công tác
vận động, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện
nay.
7
Bài 2
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI
VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
1. Tổng quan về lịch sử ra đời của Công đoàn
1.1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn trên thế giới
Giữa thế kỷ 18, cuộc Cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở Anh, sau đó tiếp
tục ở nhiều nước khác. Cuộc cách mạng này bắt đầu từ việc phát minh và sử dụng
các máy kéo sợi, máy dệt và đặc biệt là máy hơi nước cùng các máy móc khác,
chuyển lao động bằng tay sang lao động bằng máy đưa năng suất lao động lên cao
chưa từng thấy.
Từ cuộc cách mạng công nghiệp, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã ra
đời. Hai giai cấp này đối lập nhau về quyền lợi. Do bị bóc lột tàn tệ, giai cấp công
nhân đã đấu tranh chống giai cấp tư sản từ lẻ tẻ, rời rạc, tự phát dần dần thành cuộc
đấu tranh của cả một phân xưởng, một nhà máy, một ngành, một địa phương. Trong
đấu tranh, công nhân nhận thấy cần tập hợp lực lượng, thống nhất hành động mới
bảo vệ được quyền lợi của mình. Do đó đã hình thành một tổ chức để đáp ứng yêu
cầu ấy- đó là Công đoàn.
Vậy nguyên nhân chủ yếu công đoàn ra đời là vì quan hệ lao động do mâu
thuẫn trong mối quan hệ chủ thợ và để tập hợp bảo vệ quyền lợi của công nhân,
công đoàn ra đời là tất yếu khách quan. Công đoàn ra đời đầu tiên ở Anh vào đầu
năm 1776, Pháp năm 1789, Mỹ năm 1827, Đức năm 1848.
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác, phong trào đấu tranh của công nhân ngày
càng được củng cố. Để truyền bá Chủ nghĩa Mác vào sâu rộng trong giai cấp công
nhân, Mác và Ăng-gen đã đứng ra thành lập Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (tức
Quốc tế thứ nhất) vào ngày 28-9-1864 ở Luân Đôn. Quốc tế thứ nhất đồng thời làm
nhiệm vụ Quốc tế công đoàn, vạch ra cương lĩnh cơ bản và tích cực đấu tranh cho
các yêu cầu cụ thể của công đoàn.
Phong trào đấu tranh của công nhân và công đoàn ngày càng diễn ra mạnh
mẽ, đặc biệt là sau Quốc tế II được thành lập ngày 14-5-1889 và trong những năm
Chiến tranh thế giới lần thứ I. Thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga 1917 đã làm
vang dội thế giới, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga, thành
lập nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, phong trào công đoàn thế giới bước sang
giai đoạn mới.
Trong thời kỳ này, công đoàn Xô Viết có một vị trí cực kỳ quan trọng trong tổ
chức công đoàn quốc tế. Từ sự thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, phong trào
8
công nhân và công đoàn đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước khác trên thế giới như
Ý, Hung-ra-ri. Sự ra đời của quốc tế III (1919) và Công hội Đỏ (RILU) năm 1921
đã đánh dấu một bước tiến mới của công đoàn thế giới.
Chiến tranh thế giới lần II kết thúc, hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa ra đời
thể hiện sự cân bằng lực lượng giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản. Bấy
giờ, tổ chức công đoàn đã tích cực tham gia quản lý kinh tế -xã hội. Trong thời kỳ
này, nhiều tổ chức công đoàn ra đời, tiêu biểu nhất là Liên hiệp công đoàn thế giới
tháng 10-1945 (Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức này từ năm
1949); Liên hiệp Quốc tế các công đoàn tự do (1949). Những tổ chức công đoàn
mang tính quốc tế này vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, vào thập kỷ cuối của thế kỷ 20, khi chế độ Xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào công đoàn thế giới đã có những
khủng hoảng về kinh nghiệm, mô hình tổ chức, nội dung và phương pháp hoạt
động. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba,
Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản cầm quyền đang tiến hành đổi mới để phù hợp với tình hình mới.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường đang diễn ra sôi động trên phạm vi toàn thế
giới, các tập đoàn tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia đã áp dụng chính sách
đầu tư linh hoạt và phương pháp quản lý mềm dẻo, tăng cường bóc lột công nhân.
Thêm vào đó là tình hình việc làm của công nhân và người lao động trên thế giới
đang trở thành vấn đề lớn.Vì vậy, công đoàn thế giới cần phải đổi mới, kiện toàn tổ
chức công đoàn, phải phấn đấu vươn lên không ngừng vì sự nghiệp hoà bình thế
giới, ổn định kinh tế xã hội và bảo vệ người lao động.
Trải qua một thời gian dài phát triển, nhiều tổ chức công đoàn ở các quốc gia
đã có đủ điều kiện nhận thức và kinh nghiệm xây dựng tổ chức công đoàn, vai trò
và vị trí công đoàn ngày càng được khẳng định. Nhiều tổ chức công đoàn đã đứng
ra đấu tranh đòi dân chủ, công bằng xã hội, đưa ra nhiều kiến nghị đòi tăng tiền
lương, giảm giờ làm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Từ
khi ra đời cho đến nay, tổ chức công đoàn đã có nhiều đóng góp đáng kể cho tiến
trình cách mạng thế giới. Ngày nay, công đoàn đã trở thành một tổ chức quan trọng
trong hệ thống chính trị của nhiều quốc gia.
1.2. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn ở Việt Nam
Sau Đại chiến thế giới lần thứ I, thực dân Pháp tiến hành ồ ạt đợt khai thác
thuộc địa lần thứ II (1919-1929) ở nước ta. Đây là lúc giai cấp công nhân Việt Nam
tăng nhanh về số lượng và chuyển biến mau lẹ về chất lượng. Đến cuối năm 1929,
số công nhân chuyên nghiệp đã lên tới 22.000 người với cơ cấu thuần nhất, sống
tập trung và phân bố đều trên địa bàn kinh tế cả nước.
9
Ảnh hưởng từ Cách mạng tháng 10 Nga và sau đó đặc biệt là với sự truyền bá
Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào công nhân Việt
Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, hoàn thành bước chuyển biến từ tự phát sang
tự giác, từ đó, sự hình thành và phát triển của tổ chức công đoàn Việt Nam gắn chặt
với cuộc vận động thành lập Đảng. Có thể nói, từ khi Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội được thành lập (tháng 6-1925) đến khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời (3-2-1930) cũng là lúc xuất hiện các tổ chức công đoàn đầu tiên trong
lịch sử phong trào công nhân nước ta. Các cuộc bãi công từ 1925 đã thể hiện rõ nét
ý thức giai cấp, mục đích chính trị của cuộc tranh đấu. Từ những tổ chức tương tế
buổi đầu đã dần dần xuất hiện các Công hội đỏ bí mật. Năm 1919, sau khi tham gia
vụ binh biến Hắc Hải bị trục xuất về nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lập ra Công
hội đỏ Sài Gòn với nhiều cơ sở ở nhà máy đèn chợ Quán, xưởng Ba Son. Trong
cuộc bãi công lịch sử ở Ba Son (tháng 8-1925), số hội viên Công hội đỏ ở Sài Gòn
lên tới 300 người, ghi một dấu son trong lịch sử công nhân Việt Nam.
Cùng lúc ấy, một số công nhân và thuỷ thủ Việt Nam làm việc ở Pháp và
Trung Quốc được kết nạp vào Tổng công đoàn thống nhất Pháp và Hải viên Công
hội (Công nhân tàu biển). Từ mùa thu 1928, khi Kỳ bộ Bắc kỳ của Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào vô sản hoá thì Công hội đỏ
càng lớn mạnh nhất là ở Bắc kỳ- trung tâm của phong trào công nhân nước ta.
Sau cuộc bãi công A-vi-a (tháng 6-1929) thắng lợi, đồng chí Nguyễn Đức
Cảnh đã triệu tập Hội nghị Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ I vào ngày 28-7-1929 tại
số nhà 15 Phố Hàng Nón (Hà Nội). Hội nghị quyết định ra báo Lao động, tạp chí
Công hội đỏ để đẩy mạnh công tác công vận.
Công hội đỏ trong cao trào 1930-1931 đã có cơ sở mạnh mẽ khắp trong nước
và đi đầu trong các cuộc bãi công mở đường cho việc thành lập Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Tháng 8-1930, thay mặt Đông phương Bộ của Quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn
Ái Quốc đã chỉ định Công hội đỏ Việt Nam cử đại biểu đi dự Đại hội Công hội đỏ
quốc tế lần thứ VI ở Mát-xcơ-va. Khi ấy thông qua Công hội đỏ, đồng chí Trần Phú
đã đi khảo sát phong trào công nhân Nam Định, Hải phòng, Hòn Gai để viết bản
Luận cương chính trị lịch sử. Được cử làm trưởng ban Công vận trung ương, ngày
20-1-1931 tại Sài Gòn, đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng đã triệu
tập Hội nghị công nhân Đông Dương lần thứ I vạch ra phương hướng tổ chức và
đấu tranh cho phong trào công nhân và công đoàn.
Trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-193