I. Khái niệm chế độ kinh tế
Chế độ kinh tế là một bộ phận hợp thành của chế độ xã hội của mỗi quốc gia.
Dưới góc độ pháp lý, nó bao gồm một tổng thể các qui định pháp luật ghi nhận những
quan hệ kinh tế phù hợp với bản chất của nhà nước, truyền thống lịch sử và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của quốc gia. Các quan hệ này vừa là yếu tố quyết định tính chất nhà nước,
vừa là cơ sở pháp lý - kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước đó. Dưới góc độ
đó, chế độ kinh tế là một chế định quan trọng của luật Hiến pháp.
Chế độ kinh tế bao gồm trước hết là chính sách phát triển nền kinh tế. Chúng
định hướng cho sự phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của đất nước. Quan hệ nền
tảng quyết định tính chất của chế độ kinh tế là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Nhà nước phải xác định các loại hình sở hữu thích hợp, quy định chế độ pháp lý đối với
từng hình thức sở hữu đó. Chính sách về lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng thể
hiện quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Chúng cũng là một yếu tố của chế độ
kinh tế. Cuối cùng là những quan hệ về những quan hệ quản lý kinh tế. Quan hệ sản
xuất là cơ sở của hệ thống quản lý kinh tế. Hệ thống quản lý kinh tế là hình thức cụ thể
thể hiện quan hệ sản xuất kinh tế trên thực tế.
Chế độ kinh tế của nước ta được xác định là chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển, xây dựng và hoàn thiện đã trải qua nhiều giai đoạn những nét
đặc thù:
(1) Theo Hiến pháp 1946 giai đoạn (1945 - 1959) chế độ kinh tế nước ta còn là tự
nhiên, tự do với nền kinh tế nhiều thành phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới. Hiến pháp quy định quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được
bảo đảm.
(2) Hiến pháp 1959 giai đoạn (1954 - 1975) đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ
nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với việc
tiến hành công nghiệp hóa, khoa học và kỹ thuật theo hướng tiên tiến. Tuy nhiên, do điều
kiện lịch sử của giai đoạn này, đất nước ta còn bị chia cắt; cùng với nhiệm vụ xây dựng
CNXH ở Miền Bắc trong điều kiện phải tiến hành cuộc kháng chiến chống M ỹ cứu nước
để giải phóng M iền Nam, thông nhất đất nước. Hiến pháp 1959 thừa nhận tồn tại bốn loại
hình cơ bản về tư liệu sản xuất là: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người
lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Song, trong giai đoạnnày, nhà nước
chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng xoá bỏ các hình
thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của nhà
nước đối với nền kinh tế
19 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 674 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu môn về Luật hiến pháp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Đại học Cần Thơ
Khoa Luật
Luật Hiến pháp Việt Nam
(Phần 3. dùng cho sinh viên đại học tại chức bằng 2)
2
MỤC LỤC
NỘI DUNG CÁC CHUYÊN ĐỀ
CHUYÊN ĐỀ 1
CHẾ ĐỘ KINH TẾ
I. Khái niệm
II. Chính sách kinh tế của nhà nước ta
III. Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế
IV. Chính sách sản xuất, phân phối và tiêu dùng
V. Chế độ quản lý nhà nước về kinh tế
CHUYÊN ĐỀ 2
QUYỀN CÔN G DÂN TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
I. Khái niệm :
1) Quyền con người
2) Quyền công dân
II. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
III. Thực tiễn nguyên tắc đảm bảo tính hiện thực trong ghi nhận quyền công dân qua các
bản Hiến pháp Việt Nam.
CHUYÊN ĐỀ 3
QUỐC HỘI
1. Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội
2. Quy trình làm luật của Quốc hội-một số vấn đề lý luận và thực tiễn
3. Sự cần thiết phải lập chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh
4. Đổi mới hoạt động lập pháp - một nội dung quan trọng trong đổi mới hoạt động của
Quốc hội
5. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
CHUYÊN ĐỀ 4.
MỘT SỐ Q UAN ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠ NG
1. Luận cứ đổi mới chính quyền địa phương
2. Một số ý kiến về đổi mới chính quyền địa phương
A. Hội đồng nhân dân
B. Ủy ban nhân dân
CHUYÊN ĐỀ 5
TÍNH DÂN CHỦ TRON G HOẠT ĐỘ NG BẦU CỬ
1. Khái niệm dân chủ
2.Những biểu hiện dân chủ trong hoạt động bầu cử
A. Những mặt tích cực
B. Những mặt hạn chế
3. Giải pháp nâng cao tính dân chủ trong hoạt động bầu cử
3
CHUYÊN ĐỀ 1
CHẾ ĐỘ KINH TẾ
I. Khái niệm chế độ kinh tế
Chế độ kinh tế là một bộ phận hợp thành của chế độ xã hội của mỗi quốc gia.
Dưới góc độ pháp lý, nó bao gồm một tổng thể các qui định pháp luật ghi nhận những
quan hệ kinh tế phù hợp với bản chất của nhà nước, truyền thống lịch sử và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của quốc gia. Các quan hệ này vừa là yếu tố quyết định tính chất nhà nước,
vừa là cơ sở pháp lý - kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước đó. Dưới góc độ
đó, chế độ kinh tế là một chế định quan trọng của luật Hiến pháp.
Chế độ kinh tế bao gồm trước hết là chính sách phát triển nền kinh tế. Chúng
định hướng cho sự phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của đất nước. Quan hệ nền
tảng quyết định tính chất của chế độ kinh tế là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Nhà nước phải xác định các loại hình sở hữu thích hợp, quy định chế độ pháp lý đối với
từng hình thức sở hữu đó. Chính sách về lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng thể
hiện quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Chúng cũng là một yếu tố của chế độ
kinh tế. Cuối cùng là những quan hệ về những quan hệ quản lý kinh tế. Quan hệ sản
xuất là cơ sở của hệ thống quản lý kinh tế. Hệ thống quản lý kinh tế là hình thức cụ thể
thể hiện quan hệ sản xuất kinh tế trên thực tế.
Chế độ kinh tế của nước ta được xác định là chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình phát triển, xây dựng và hoàn thiện đã trải qua nhiều giai đoạn những nét
đặc thù:
(1) Theo Hiến pháp 1946 giai đoạn (1945 - 1959) chế độ kinh tế nước ta còn là tự
nhiên, tự do với nền kinh tế nhiều thành phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới. Hiến pháp quy định quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được
bảo đảm.
(2) Hiến pháp 1959 giai đoạn (1954 - 1975) đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ
nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với việc
tiến hành công nghiệp hóa, khoa học và kỹ thuật theo hướng tiên tiến. Tuy nhiên, do điều
kiện lịch sử của giai đoạn này, đất nước ta còn bị chia cắt; cùng với nhiệm vụ xây dựng
CNXH ở Miền Bắc trong điều kiện phải tiến hành cuộc kháng chiến chống M ỹ cứu nước
để giải phóng M iền Nam, thông nhất đất nước. Hiến pháp 1959 thừa nhận tồn tại bốn loại
hình cơ bản về tư liệu sản xuất là: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người
lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Song, trong giai đoạnnày, nhà nước
chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng xoá bỏ các hình
thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của nhà
nước đối với nền kinh tế.
(3) Hiến pháp 1980 (giai đoạn 1975 - 1985) quy định một chế độ kinh tế thuần tuý
chế độ xã hội chủ nghĩa với một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần: kinh tế quốc dân
và kinh tế tập thể với hai hình thức sở hữu tương ứng: sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Thực hiện một chế độ quản lý kinh tế theo kế hoạch tập trung thống nhất kết hợp
quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ.
(4) Hiến pháp 1992 mở ra một giai đoạn mới. Chế độ kinh tế được qui định là kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức này rút ra từ bài học
của sai lầm, nóng vội, duy ý chí trong quá khứ. Hiến pháp 1992 đã quy định những nội
4
dung mới về chế độ kinh tế như chính sách kinh tế, hình thức sở hữu, chế độ lao động sản
xuất, phân phối và tiêu dùng và chế độ quản lý kinh tế.
Hiến pháp 1992 đã được ban hành trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; trong bối cảnh của những năm 90 của thế kỷ XX mà chưa phải
trong bối cảnh như hiện nay là “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến
năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
M ặc dù vậy, Hiến pháp 1992 vẫn còn dấu ấn của cơ chế tập trung, hành chính, bao
cấp; các quan điểm về nền kinh tế thi trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các quan điểm về hội nhập quốc tế vẫn còn ở giai đoạn. Từ sau
Đại hội IX của Đảng, không chỉ là Đại hôi thường kỳ 5 năm một lần mà còn là Đại hội
tổng kết thành tựu cũng như những bài học của 15 năm triển khai, thực hiện đường lối
đổi mới, 10 năm thực hiện thắng lợi “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến
năm 2000”, đây còn là Đại hội định ra “chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001- 2010”;
việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã được đặt ra.
(5) Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2002 vẫn giữ quy định về 3 loại
hình sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân và vẫn xác định sở hữu toàn dân và tập thể là
nền tảng trong nền kinh tế quốc dân, nhưng với nhiều thành phần kinh tế hợp thành (ghi
nhận thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng hơn thành phần
kinh tế cá thể, tiểu chủ) và không còn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà xác định chính sách phát triển của nước ta là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh tế độc lập, tự chủ trên
cơ sở phát huy nội lực, chủ động vào nền kinh tế quốc tế (Xem Điều 79 Hiến pháp 1980
và Điều 78 Hiến pháp 1992.)
II. Chính sách kinh tế của nhà nước ta
Điều 15 Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Trước đây nền kinh tế nước ta xây dựng lên là một nền kinh tế hiện vật, nền kinh
tế xã hội hóa trực tiếp được đặt dưới sự chỉ huy bởi kế hoạch hóa tập trung cao độ. Cơ
chế quản lý đó đã làm cho các tổ chức kinh tế hoạt động thiếu chủ động, thiếu hiệu quả,
trông chờ và ỷ lại vào nhà nước. Nền kinh tế thời kỳ này ở trong tình trạng trì trệ kéo dài
mà thực chất là khủng hoảng. Chính sách kinh tế mới thay cho cơ chế kế hoạch hóa, tập
trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường hướng mới này là cơ sở xuất phát
điểm cho những nguyên tắc phân định ra để bảo đảm tính thống nhất hai mặt của sự phát
triển kinh tế, hai mặt đó là:
- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường.
- Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đã có quan điểm cho rằng đã là kinh tế thị trường tức là kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, chấp nhận kinh tế thị trường là chấp nhận quay trở về chủ nghĩa tư bản. Tư tưởng
mà Đảng và Nhà nước ta khẳng định hoàn toàn khác, kinh tế thị trường là loại hình phát
triển kinh tế có nhiều ưu điểm mà các xã hội đều tận dụng nó. Chúng ta chủ trương sử
dụng cơ chế thị trường để tận dụng các mặt tích cực của cơ chế đó đồng thời phải định
hướng nó phục vụ các mục tiêu công bằng, ổn định và tiến bộ xã hội, ngăn ngừa những
mặt tiêu cực mà cơ chế này luôn luôn tiềm ẩn, trước định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để bảo đảm cho mặt thứ nhất, Hiến pháp 1992 đã quy định một loạt nguyên tắc
mới như: cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
5
đa dạng dựa trên nhiều loại hình sở hữu; phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư
bản nhà nước dưới nhiều hình thức ... Nhà nước khuyến khích nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam; tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước không bị quốc hữu
hóa, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và cạnh
tranh với nhau một cách lành mạnh.
Để bảo đảm cho mặt thứ hai, Hiến pháp cũng quy định một loạt nguyên tắc tương
ứng. Bên cạnh việc phát triển mọi thành phần kinh tế, chúng ta chủ trương sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân, trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh và vì lợi ích
quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ
chức, Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách (Điều 26). Xử lý nghiêm mọi hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp pháp, bảo vệ
quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng (Điều 28).
Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển
các hình thức hoạt động kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước (Điều
24). Đó là tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình
xây dựng tiếp theo không thể để xảy ra tình trạng chạy theo lợi nhuận mà buông lơi các
vấn đề xã hội, xâm hại môi trường. Đây là đặc điểm quan trọng thể hiện tính tiến bộ của
nền kinh tế thị trường nước ta, thể hiện sự khác biệt giữa nền kinh tế nước ta với kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa.
(Việc Mỹ rút khỏi Nghị định thư Kyoto về vấn đề bảo vệ môi trường, thất bại
của Hội nghị LHQ về biến đổi khí hậu toàn cầu năm 2009 tại Copenhaghen – Đan
Mạch)
Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ kinh tế như xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ không để bị phụ thuộc vào nền kinh tế của bất kỳ cường quốc
nào, thể hiện sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền quốc gia, kinh tế Việt Nam luôn ở thế
chủ động, linh hoạt không như thời kỳ bao cấp trước đây.
Nhà nước ta vẫn duy trì mục đích phát triển kinh tế như Hiến pháp 1992 đã đề ra
nhưng các thành phần kinh tế được ghi nhận phong phú hơn: có thêm thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ (để tạo điều kiện
phát triển mô hình kinh tế trang trại như hiện nay) tạo điều kiện phát huy mọi năng lực
sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Đồng thời xác định các thành phần
kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường của nước ta đều
được đầu tư sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, đều
có sự bình đẳng và cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách thúc đẩy sự hình thành, phát triển, cũng
như từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (thị
trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường tiền tệ...). Đặc biệt, hiện nay Nhà
nước luôn có những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam
định cư ở nước ngoài đầu tư về quê hương, đất nước. (Chế độ một giá đối với Việt kiều,
Việt kiều được mua và sở hữu nhà tại Việt Nam).
III. Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế
Chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản trong chế độ kinh tế. Chính vì vậy mà việc điều
chỉnh các quan hệ sở hữu luôn luôn đặt ra đối với Hiến pháp các nước khác cũng như đối
với Hiến pháp nước ta.
6
Hiến pháp 1992 thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển sở hữu tư nhân đối với
tư liệu sản xuất bên cạnh các loại hình sở hữu khác là điểm mấu chốt trong chế độ kinh
tế nước ta giai đoạn này. Các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước được phát triển, bình đẳng
trước pháp luật, tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy trên thực tế đã có sự thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu
phi xã hội chủ nghĩa. Ở đây nhà nước ta chủ trương không phải từ bỏ những nguyên tắc
kinh tế xã hội chủ nghĩa mà là sử dụng và phát huy tác dụng tích cực của các thành phần
kinh tế đó trong đó kinh tế quốc doanh vẫn chiếm địa vị chủ đạo.
Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi thì thành phần kinh tế quốc doanh được đổi là thành
phần kinh tế nhà nước để phù hợp hơn.
Hiện nay ở nước ta đang tồn tại những hình thức sở hữu chủ yếu sau:
1. Sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước)
Đây là hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân. Nó bao quát những tư liệu sản xuất chủ chốt quyết định sự phát triển của nền kinh tế.
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, tài sản do
Nhà nước đầu tư vào các công trình, các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, quốc phòng, ngoại
giao ...
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân là tài sản chung của toàn xã hội. Chủ thể của sở
hữu này là toàn thể nhân dân mà Nhà nước là đại diện. Nhà nước với tính cách là đại diện
chủ sở hữu của toàn dân định đoạt tài sản của Nhà nước, thực hiện thẩm quyền của nhân
dân đối với tài sản đó. Nhà nước là chủ thể thống nhất và duy nhất đối với tất cả tài sản
thuộc sở hữu Nhà nước. Nhà nước giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho các tập thể, cá
nhân sử dụng theo quy định của pháp luật và hiệu quả.
Chẳng hạn như đất đai là tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thống
nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng theo quy định
của pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường cần phải củng cố
và tăng cường sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Bởi vì chỉ có phát huy ưu thế của các
thành phần kinh tế này thông qua cạnh tranh lành mạnh thì mới chế ngự mặt tiêu cực của
sở hữu tư nhân. Vì thế, Hiến pháp 1992 quy định “ kinh tế quốc doanh được củng cố và
phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân” (Điều 19).
2. Sở hữu tập thể
Là loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa gần giống với sở hữu toàn dân. Tuy nhiên nó
có những điểm khác so với sở hữu toàn dân về chủ thể, phương pháp hình thành, phạm vi
các đối tượng tài sản và trật tự quản lý.
Sở hữu tập thể bao gồm sở hữu của các hợp tác xã sản xuất, kinh doanh trong các
lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và các hình thức kinh tế
hợp tác.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể là tài sản không nằm trong diện sở hữu tuyệt đối của
Nhà nước và được sử dụng để tiến hành các hoạt động sản xuất tương ứng hay phục vụ
các nhu cầu sản xuất, văn hóa, đời sống của các thành viên trong tập thể.
3. Sở hữu tư nhân
7
Sở hữu tư nhân là sở hữu của lao động cá thể, tư bản tư nhân trong nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải.
Thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản
xuất là một bước phát triển trong chế độ kinh tế nước ta. Khi mà việc tồn tại nhiều hình
thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất còn là khách quan, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất nước ta trong giai đoạn hiện nay mà chủ trương xoá bỏ tư hữu,
phát triển sở hữu toàn dân thuần khiết, nhất là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
này chưa đủ sức giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội thì chẳng những kiềm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất mà sở hữu toàn dân cũng bị suy vong vì cung cách quản lý
hành chính mệnh lệnh, độc quyền. Thừa nhận và bảo vệ sở hữu tư nhân là nhằm giải
phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên cần phải thấy mặt trái luôn luôn tiềm ẩn của sở hữu tư nhân là sự chiếm
hữu lợi ích kinh tế. Để ngăn ngừa tình trạng này cần phải phát huy ưu thế của các thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường, vừa tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển vừa bảo đảm sự tuân thủ
pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng.
Ngoài ra còn có các hình thức sở hữu như:
4. Sở hữu hỗn hợp
Điều 16 Hiến pháp 1992 đã khẳng định về việc phát triển thành phần kinh tế tư
bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm
cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của
nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
5. Sở hữu cá nhân
Nguồn chủ yếu của sở hữu này là kết quả lao động của cá nhân và phần quỹ tiêu
dùng xã hội mà cá nhân được hưởng. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân chủ yếu là những sản
phẩm tiêu dùng. Chủ thể của sở hữu cá nhân là các thành viên trong xã hội trực tiếp tham
gia lao động sản xuất.
Sở hữu cá nhân bắt nguồn từ lao động do có sự tham gia lao động xã hội mà có.
Nguồn của sở hữu cá nhân là thu nhập do lao động và các thu nhập chính đáng khác. Sản
phẩm thuộc kinh tế phụ gia đình cũng thuộc vào sở hữu cá nhân. Người làm kinh tế phụ
gia đình là cán bộ, công nhân viên nhà nước, xã viên hợp tác xã tự bỏ sức lao động của
mình không gắn với bóc lột sức lao động của người khác. “Kinh tế gia đình được khuyến
khích phát triển “ (Điều 21).
Hiến pháp sửa đổi 1992 có sự mở rộng về đối tượng của thành phần kinh tế cá thể
là “kinh tế cá thể, tiểu chủ” với mục đích phát huy mô hình kinh tế trang, đồng thời cũng
quy định thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đáp ứng kịp thời nhu
cầu và tình hình thực tiễn của đất nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và kinh
tế thế giới. Đây là một việc làm cần thiết để góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và
là điều kiện để Việt Nam từng bước gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
IV. Chính sách lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng
Hiến pháp năm 1992 qui định “Lao động là quyền, nghĩa vụ của công dân” (Điều
55). Lao động sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở đời sống của bất kỳ một xã hội
nào.Chủ nghĩa xã hội đề cao lao động, coi lao động là phương thức quan trọng nhất thể
8
hiện sáng tạo của cá nhân, coi lao động ích lợi xã hội và kết quả của nó quyết định địa vị
của cá nhân trong xã hội; đồng thời tuyên bố giải phóng lao động khỏi bị bóc lột.
Lao động trong xã hội xã hội chủ nghĩa cơ bản là lao động xã hội trực tiếp. Điều
này bắt nguồn từ việc coi thành phần kinh tế quốc doanh, nơi có mức độ xã hội tư liệu
sản xuất cao nhất, là thành phần đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế tập thể
được khuyến khích phát triển cũng góp phần vào quá trình xã hội hóa lao động. Với
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần như hiện nay, trong đó có sự thừa nhận sự
tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể thì chế độ lao động nước ta có cũng có
những đổi mới.