Tài liệu tư tưởng Hồ Chí Minh

Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây dựng, được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH. TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH. Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức. Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.

doc44 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Tất yếu liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta   Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây dựng,  được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH. TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH. Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức. Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”. Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan. Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai cấp tư sản. Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị  thất bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”.            Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm, vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.   Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân. Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công – nông. Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.   Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”. Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức, không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minhđể giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức. Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp không được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công -  nông - trí thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng, họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích, niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn. Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội nghị trung ương bảy( Khóa IX), trung ương bảy (Khóa  X). Tóm lại, khi liên minh công - nông - trí - thức được thiết lập, củng cố trên cơ sở các điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự lãnh đạo của ĐCS, cho Nhà nước. Để tập hợp lực lượng rộng rãi quần chúng nhân dân trong khối Đại đoàn kết toàn dân cũng phải lấy liên minh công - nông - trí làm nòng cốt. Có liên minh cũng là điều kịên bảo đảm ổn định chính trị cho công cuộc đổi mới, cải cách của CNXH. Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc 1.Cách mạng giải phóg dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đưòng cách mạng vô sản Thất bại của các phong trào yêu nứoc chống thực dân Pháp ở Viêt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chứng tỏ những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của daan tộc do lịch sử đặt ra.Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của cha ông, nhưng Người khong tán thành những con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm đi theo con đường cứu nước mới.Con đường cách mạng đó bao gồm những nọi dung chủ yếu sau: + Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bứoc “đi tới xã hội cộng sản”. + Lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. + Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân và lao động trí óc. + Sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế. 2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của tổ chức cách mạng. Phan Châu Trinh nói: ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể. Rất tiếc ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình thì bị bắt và giam lỏng tại Huế’. Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính tri đúng đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng. Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công “ trước hết phải có đường cách mệnh”. 3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc “ là viẹc chung của toàn dân chứ khong phải là việc của một hai người”. Người phân tích: “ dân tộc cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi .Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác địng lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, dân cáy, tiểu thương đi vào phe giai cấp vô sản; với bộ phận phú nông, địa chủ, tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì cho ho đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quóc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy dân làm nguồn gốc sức mạnh.Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu nứoc nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: “Địch chiếm trời, địch chiếm đất nhưng làm sao chiếm lòng yêu nướic nồng nàn của nhân dân ta”. Xuất phát từ tưong quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh chủ trương phát động chiến tranh nhân dân. Khang chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện.Lức lượng toàn dân là điều kiện để đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân tộc. Trong chiến tranh, “ quân sự là việc chủ chốt”, nhưng phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược,có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hoá và cô lập kể thù, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Chiến tranh về mặtvăn hoá hay tư tưỏng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng”. Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa – vì độc lập tự do,làm cho khả năng tiến hành chiến tranh mhân dân trở thành hiện thực, làm cho nhân dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưỏng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi, đáng thắng hai đế quốc hùng mạnh làm nên tháng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc. 4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vo sản ở chính quốc có ói quan hệ mật thiết , qua lại với nhau trong cuọc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng. Nhân dân các dân tộc thuộc đại có khả năng cách mạng to lớn.Theo Hồ Chí Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. 5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải đựoc tiến hành bằng con đưòng cách mạng bạo lực a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lựoc và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân , tự bản thân nó đã thành một hành động bạo lực của kẻ mạnh với kẻ yếu.Chưa đè bẹp đựoc ý chí xâm lựoc của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập là con đường cách mạng bạo lực. Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực của cách mạng cuãng là bạo lực của quần chúng.Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đáu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong chiến tranh cách mạng, lực lưọng đấu trang vũ trang và đáu trang vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lưọng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng.Nhưng đaúu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. Xuất phát từ tình yêu thương con người,quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu nhất. Người tìm mọi cách bgăn chăn xung đột vũ trang, tìm cách giải quyết bằng hoà bình, chủ động đàm phán, thưong lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là phải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trưòng tực dân,chỉ muón giành thắng lợi bằngquân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh. Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hoà bình. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính Phủ và người dân Pháp cho các chính phủ các nhà hoạt động chính trị, văn hóa các nước vừa tố cáo cuộc chiếm tranh xâm lược của thực dân Pháp vừa kêu gọi đàm phán hoàn bình. Tư tưỏng bạo lực cách mạng và tư tưỏng nhân đạo hoà bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Người chủ trương yêu nứoc, thương dân, yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý,tranh thủ hoà bình giải quyết xung đột, nhưng khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩ và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hoà bình, vì độc lập tự do. b) Phưong châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong khangs chiến chống thực dân Pháp, Người nói : “Địch muốn tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua,ta nhất địng thắng”.Trường kỳ kháng chiến nhât sđịng thắng lợi. Kháng chiến phải trưòng kỳ vì đất ta hep, dân ta ít, nước ta nghèo ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân. Trong kháng chiến chông Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập