Nấm (Fungi) là 1 giới trong số 4 giới sinh vật (theo A.L. Takhtadjan, 1974)hay 5 giới (theo R.H. Whitaker, 1969). Có khoảng hơn 10 vạn loài nấm khác nhau,nấm là đối tượng nghiên cứu của ngành Nấm học (Mycology), 1 ngành khoa họcđộc lập với vi sinh vật học. Tuy nhiên, có một số nhóm nấm có kích thước nhỏ bé,
24 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2100 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu về Vi nấm (Microfungi), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vi nấm (Microfungi):
Nấm (Fungi) là 1 giới trong số 4 giới sinh vật (theo
A.L. Takhtadjan, 1974)
hay 5 giới (theo R.H. Whitaker, 1969). Có khoảng
hơn 10 vạn loài nấm khác nhau,
nấm là đối tượng nghiên cứu của ngành Nấm học
(Mycology), 1 ngành khoa học
độc lập với vi sinh vật học. Tuy nhiên, có một số
nhóm nấm có kích thước nhỏ bé,
muốn nghiên cứu chúng phải sử dụng các phương
pháp vi sinh vật học cho nên
chúng được coi là đối tượng nghiên cứu của vi sinh
vật học, người ta gọi chúng là vi
23
nấm. Vi nấm gồm tất cả các loài nấm men và các
nấm sợi không sinh quả thể lớn
(mũ nấm).
1. Nấm men (Levure, Yeast):
Nấm men là nhóm vi sinh vật đơn bào, phân bố rộng
rãi trong tự nhiên, đặc
biệt là trong các môi trường có đường, pH thấp như:
hoa quả, rau dưa, mật mía, rỉ
đường, mật ong, trong đất ruộng mía, đất vườn cây
ăn quả, trong đất có nhiều dầu
mỏ.
a. Hình dạng, kích thước và cấu tạo tế bào nấm
men:
- Nấm men có nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu,
hình trứng, hình ôvan,
hình elip, hình sao, hình thoi, hình lưỡi liềm, hình
tam giác, hình chai, ... Có loài
nấm men có khuẩn ty giả, khuẩn ty này chưa thành
sợi rõ rệt mà thực chất là do
nhiều tế bào nối với nhau thành chuỗi dài.
- Nấm men thường có kích thước lớn gấp 10 lần so
với vi khuẩn, đa số có
kích thước trung bình từ 3 – 5 x 5 – 10 µm, một số có
kích thước khá lớn như nấm
men lên men rượu (Saccharomyces cerevisiae) có
kích thước 2,5 – 10 x 4,5 – 21
µm.
- Tế bào nấm men có cấu tạo gần giống với vi khuẩn,
gồm các phần sau:
+ Thành tế bào: chiếm 25% khối lượng khô của tế
bào, dầy khoảng 25
nm. Đa số được cấu tạo từ mannan và glucan, một số
nấm men chứa kitin và
mannan. Ngoài ra trong thành tế bào còn có khoảng
10% protein và một lượng nhỏ
lipit, đôi khi còn có poliphotphat, sắc tố và ion vô cơ.
+ Màng nguyên sinh chất: có chiều dầy khoảng 7 – 8
µm, cấu tạo chủ
yếu từ protein (chiếm 50% khối lượng khô), lipit
chiếm 40% và một ít polisaccarit.
Ngoài chức năng tương tự như màng nguyên sinh
chất của vi khuẩn, màng nguyên
sinh chất của nấm men còn làm nhiệm vụ hoạt hoá ty
thể.
+ Nguyên sinh chất: trong nguyên sinh chất của tế
bào nấm men có ty
thể, không bào, riboxom, các hạt dự trữ. Ngoài ra một
số loài còn có vi thể, đây là
thể hình cầu hay hình trứng, có đường kính 3 µm,
được phủ bằng một lớp màng
mỏng dầy 7 nm. Vi thể có vai trò nhất định trong việc
oxy hoá metanol.
* Ty thể là những thể hình cầu, hình que, hình sợi, có
kích
thước khoảng 0,2 – 0,5 x 0,4 – 1 µm. ADN của ty thể
là một phân tử dạng vòng,
chiếm 15 – 23% tổng lượng ADN của toàn bộ tế bào.
Ty thể gồm 2 lớp màng: màng
ngoài và màng trong. Màng trong có hình lượn sóng
hay hình răng lược để tăng
diện tích tiếp xúc, giữa 2 màng có các hạt nhỏ gọi là
hạt cơ bản, bên trong ty thể là
dịch hữu cơ, ty thể chứa nhiều loại enzim khác nhau
như oxidaza, xitocromoxidaza,
peroxidaza, photphataza. Ty thể được coi là trạm
năng lượng của nấm men (Ty thể
tham gia vào việc thực hiện các phản ứng oxy hoá
giải phóng năng lượng ra khỏi cơ
chất, làm cho năng lượng được tích luỹ dưới dạng
ATP. Tham gia giải phóng năng
lượng khỏi ATP và chuyển dạng năng lượng đó thành
dạng năng lượng có ích cho
hoạt động sống của tế bào. Ngoài ra ty thể còn tham
gia vào việc tổng hợp protein,
lipit, hydratcacbon, đây là những chất tham gia tổng
hợp thành tế bào).
Riboxom: số lượng khác nhau tuỳ theo từng loài,
từng giai
đoạn phát triển và điều kiện nuôi cấy. Có 2 loại
riboxom: loại 70S tồn tại chủ yếu
trong ty thể, loại 80S tồn tại chủ yếu trong mạng lưới
nội chất và một số ít tồn tại ở
trạng thái tự do.
* Không bào: khi già trong tế bào nấm men xuất hiện
không
bào. Trong không bào có chứa enzim thuỷ phân,
poliphotphat, lipoit, ion kim loại,
các sản phẩm trao đổi chất trung gian. Ngoài tác dụng
là kho dự trữ, không bào còn
có chức năng điều hoà áp suát thẩm thấu của tế bào.
+ Nhân: Nhân tế bào nấm men là nhân thật, đã có sự
phân hoá rõ rệt,
có kết cấu hoàn chỉnh và ổn định. Nhân thường có
hình cầu, đôi khi kéo dài, có kích
thước khoảng 2 – 3 µm.
b. Sinh sản và các chu kỳ sống của nấm men:
* Sinh sản vô tính:
- Sinh sản bằng cách nảy chồi. Đây là hình thức sinh
sản phổ biến và
đặc trưng của nấm men. Khi trưởng thành, tế bào
nấm men sẽ nảy ra một chồi nhỏ,
các enzim thuỷ phân sẽ làm phân giải phần
polisaccarit cuả thành tế bào làm cho
chồi chui ra khỏi tế bào mẹ. Vật chất mới được tổng
hợp sẽ được huy động đến chồi
và làm chồi phình to dần lên, một phần nhân của tế
bào mẹ được chuyển sang chồi,
sau đó tách ra thành một nhân mới, rồi hình thành
vách ngăn để ngăn cách với tế
bào mẹ, tạo nên một tế bào mới. Tế bào con được tạo
thành có thể tách khỏi tế bào
mẹ hoặc vẫn dính trên tế bào mẹ và tiếp tục nảy sinh
tế bào mới.
- Sinh sản bằng cách phân cắt tương tự như ở vi
khuẩn, kiểu sinh sản
này chỉ có ở chi Schizosaccharomyces. Đến thời kỳ
sinh sản, tế bào nấm men dài ra,
ở giữa mọc ra vách ngăn chia tế bào thành 2 phần
tương đương nhau, mỗi tế bào
con sẽ có 1 nhân.
- Sinh sản bằng bào tử:
+ Bào tử đốt: ở chi Geotrichum.
+ Bào tử bắn: ở chi Sporopolomyces.
+ Bào tử áo: ở loài Candida albicals.
* Sinh sản hữu tính: nấm men sinh sản hữu tính
bằng cách hình thành bào
tử túi. Hình thức sinh sản này thường gặp ở các chi
Saccharomyces,
Zygosaccharomyces, và nhiều chi khác thuộc bộ
Endomycetales.
Bào tử túi (ascospore) được sinh ra trong túi (ascus),
mỗi túi có 2, 4 hoặc 8
bào tử. Túi được hình thành do sự tiếp hợp của 2 tế
bào nấm men. Khi 2 tế bào nấm
men khác giới (mang dấu + và dấu -) đứng gần nhau
sẽ mọc ra mấu lồi. Chúng tiến
lại sát nhau và tiếp nối với nhau. Ở chỗ tiếp nối sẽ tạo
ra một lỗ thông và qua lỗ
thông đó chất nguyên sinh và nhân có thể đi qua để
phối chất và phối nhân. Sau đó
nhân phân cắt thành 2, 4, hoặc 8 nhân con, mỗi nhân
con được bao bọc bởi nguyên
sinh chất rồi tạo thành màng dày bao xung quanh và
tạo thành các bào tử túi. Tế bào
dinh dưỡng biến thành túi.
Chu kỳ sống của nấm men có thể phân ra thành 3 loại
hình:
Các tế bào dinh dưỡng đơn bội (n) có thể tiếp hợp với
nhau để tạo ra tế bào
dinh dưỡng lưỡng bội (2n). Sau quá trình giảm phân
sẽ sinh ra các bào tử túi
(thường là 4 bào tử túi). Bình thường khi không có
sinh sản hữu tính chúng vẫn liên
tục nảy chồi để sinh sôi nảy nở. Chu kỳ sống này
thường gặp ở nấm men lên men
rượu Saccharomyces cerevisiae.
- Các tế bào dinh dưỡng đơn bội (n) sinh sản theo lối
phân cắt. Hai tế bào
khác dấu ở gần nhau sẽ tiếp hợp với nhau và sau quá
trình phân cắt 3 lần (lần đầu
giảm phân) sẽ tạo ra 8 bào tử túi. Tế bào mang 8 bào
tử này trở thành túi. Khi túi
vỡ, các bào tử phát tán ra ngoài, gặp điều kiện thuận
lợi sẽ phát triển thành các tế
bào dinh dưỡng. Chu kỳ sống này thường gặp ở
Schizosaccharomyces octospora.
- Thể dinh dưỡng chỉ có thể tồn tại dưới dạng lưỡng
bội (2n), sinh sản theo
lối nảy chồi khá lâu. Bào tử túi đơn bội tiếp hợp từng
đôi với nhau ngay cả khi còn
nằm trong túi. Giai đoạn đơn bội tồn tại dưới dạng
bào tử túi nằm trong túi và
không thể sống đọc lập. Chu kỳ sống này thấy rõ ở
Saccharomyces ludwigii.
c. Vai trò của nấm men:
- Nhiều nấm men tham gia vào quá trình lên men
rượu nên được ứng dụng
rộng rãi trong công nghiệp sản xuất rượu, bia, cồn,
glyxerin, nước giải khát.
- Nấm men sinh trưởng nhanh, sinh khối nấm men
giàu vitamin, protein và
chứa nhiều loại axit amin, vì thế được sử dụng rộng
rãi trong công nghiệp sản xuất
thức ăn phục vụ cho chăn nuôi, sản xuất các axit
amin như lizin, xistein, metionin;
các enzim như amilaza, lactaza, invertaza, ...
- Nấm men còn được sử dụng để làm nở bột mỳ, gây
hương nước chấm, sản
xuất một số dược phẩm.
Bên cạnh những loài nấm men có ích vẫn có một số
loài gây hại cho người
và gia súc hoặc có thể làm hư hỏng thực phẩm tươi
sống và thực phẩm chế biến.
d. Phân loại nấm men:
J.A. Barnett, R.W. Payne và D.Yarrow, 1983 đã xác
định có 483 loài nấm
men, thuộc 66 chi khác nhau.
2.Nấm mốc (Moulds)/ Nấm sợi (Filamentous
fungi):
Nấm mốc hay còn gọi là nấm sợi là tên chung để chỉ
tất cả các nấm không
phải là nấm men mà cũng không phải là nấm có mũ
nấm (quả thể có kích thước
lớn). Nấm mốc thường mọc trên thực phẩm, áo quần,
giầy dép, sách vở, trên các
dụng cụ, vật liệu... chúng phát triển rất nhanh trên
nhiều nguồn cơ chất hữu cơ khi
gặp khí hậu nóng ẩm. Trên các vật liệu vô cơ do dính
bụi bẩn như máy ảnh, thấu
kính, kính lúp, kính hiển vi, ống nhòm...chúng vẫn có
thể phát triển, sinh axít và
làm mờ các vật liệu này.
a. Hình thái, kích thước và cấu tạo của sợi nấm:
Nấm mốc có cấu tạo sợi, phân nhánh, những sợi này
sinh trưởng ở đỉnh và
phát triển rất nhanh tạo thành một đám chằng chịt các
sợi, từng sợi được gọi là
khuẩn ty (hypha), còn cả đám sợi nấm thì được gọi là
khuẩn ty thể hay hệ sợi nấm
(mycelium). Cũng tương tự như xạ khuẩn, trên khuẩn
ty thể người ta phân biệt 2
loại khuẩn ty: khuẩn ty cơ chất (khuẩn ty dinh dưỡng)
và khuẩn ty khí sinh (khuẩn
ty sinh sản).
Khuẩn ty của nấm mốc phân nhánh, chiều ngang của
khuẩn ty khoảng 3 – 10
µm (tương tự như đường kính tế bào nấm men và lớn
gấp 10 lần chiều ngang của xạ
khuẩn). Tuỳ từng loài nấm mốc mà khuẩn ty có hình
thái khác nhau như hình lò xo,
hình xoắn ốc, hình cái vợt, hình sừng hươu, hình
lược, hình lá dừa. Một số loài nấm
bậc thấp, khuẩn ty không có vách ngăn, toàn bộ hệ
sợi nấm có thể coi là một tế bào
phân nhánh, người ta gọi đó là cơ thể đa nhân. Phần
lớn các loài nấm mốc, khuẩn ty
có vách ngăn nên cơ thể chúng có cấu tạo đa bào.
Cấu trúc sợi nấm mốc cũng tương tự như cấu trúc của
tế bào nấm men. Bên
ngoài là thành tế bào, tiếp đến là màng nguyên sinh
chất, bên trong là nguyên sinh
chất với nhân phân hoá rõ rệt. Một số nấm mốc thành
tế bào đã có xenlulo.
b. Sinh sản của nấm mốc:
* Sinh sản vô tính: nấm mốc sinh sản vô tính bằng
cách hình thành bào tử, có
nhiều loại bào tử:
- Bào tử đốt: các khuẩn ty khi sinh có sự ngắt đốt,
mỗi đốt được coi như một
bào tử.
- Bào tử màng dày (Chlamydospore): trên các đoạn
khuẩn ty xuất hiện những
tế bào có hình tròn hoặc gần tròn, có màng dày bao
bọc tạo thành bào tử.
- Bào tử nang (Sporangiospore): do sự phình to của
đầu khuẩn ty khí sinh tạo
thành nang (sporangium), bên trong chứa nhiều bào
tử. Khi nang vỡ, bào tử phát tán
ra ngoài.
- Bào tử đính hay bào tử trần (conidium): đa số bào tử
trần là bào tử ngoại
sinh, nghĩa là được sinh ra từ bên ngoài các tế bào
sinh bào tử, một số được sinh ra
bên trong các tế bào sinh bào tử (nội sinh).
* Sinh sản hữu tính: nấm mốc có quá trình sinh sản
hữu tính như ở các sinh
vật bậc cao. Sinh sản hữu tính của nấm mốc cũng
bằng cách hình thành bào tử. Tuỳ
theo hình thức sinh sản mà chia ra 4 loại bào tử:
- Bào tử noãn (oospore): noãn khí (cơ quan sinh sản
hữu tính cái) được sinh
ra trên đỉnh khuẩn ty khí sinh, hùng khí (cơ quan sinh
sản hữu tính đực) được sinh
ra ở gần noãn khí. Khi noãn khí chín trong noãn khí
có nhiều noãn cầu. Khi tiếp xúc
với noãn khí, hùng khí sẽ sinh ra một hoặc vài ống
xuyên chứa một nhân và một
phần nguyên sinh chất thụ tinh cho một noãn cầu để
tạo thành một noãn bào tử.
Noãn bào tử được bao bọc bởi một lớp màng dày, sau
một thời gian phân chia giảm
nhiễm sẽ phát triển thành khuẩn ty mới.
- Bào tử tiếp hợp (zygospore): khi hai khuẩn ty khác
dấu gần nhau tiếp giáp
với nhau thì chúng mọc ra hai mấu lồi gọi là nguyên
phối nang (progametangia),
các mấu lồi này tiến lại gần nhau, mỗi mấu xuất hiện
một vách ngăn phân tách hai
phần đầu của hai mấu lồi thành hai tế bào đa nhân.
Hai tế bào này sẽ tiếp hợp với
nhau tạo thành hợp tử đa nhân và có màng dầy bao
bọc, gọi là bào tử tiếp hợp.
- Bào tử túi (ascospore): trên khuẩn ty đơn bội sinh ra
2 cơ quan sinh sản là
túi giao tử đực nhỏ, hình ống gọi là hùng khí
(antheridium) và túi giao tử cái gọi là
thể sinh túi (ascogonium). Thể sinh túi có hình cầu
hoặc hình viên trụ, đầu kéo dài
ra thành một ống gọi là sợi thụ tinh (trichogyne). Khi
hùng khí tiếp xúc với sợi thụ
tinh thì khối nguyên sinh chất chứa nhiều nhân của
hùng khí sẽ chui qua sợi thụ tinh
để đi vào thể sinh túi, sau đó xảy ra quá trình phối
hợp với nhau. Các nhân sắp xếp
với nhau từng đôi một (một đực, một cái). Trên thể
sinh túi sẽ mọc ra nhiều sợi sinh
túi, các nhân kép được chuyển vào trong các sợi sinh
túi, từng nhân phân chia nhiều
lần và xuất hiện vách ngăn chia sợi sinh túi thành
nhiều tế bào chứa nhân kép. Tế
bào ở cuối sợi uốn cong lại, nhân kép chia một lần
tạo thành 4 nhân. Sau đó tế bào
này tách ra thành 3 tế bào, tế bào giữa chứa 2 nhân, tế
bào ngọn và gốc chứa 1 nhân.
Tế bào giữa sẽ phát triển thành túi bào tử và 2 tế bào
ngọn và gốc sau này cũng có
sự tiếp hợp thành một tế bào 2 nhân rồi phát triển
thành một túi mới.
- Bào tử dảm (basidiospore): khi hai khuẩn ty đơn
bội khác tính tiếp giáp với
nhau thì trên một khuẩn ty sẽ sinh ra một ống nối
sang khuẩn ty kia, nhân và nguyên
sinh chất sẽ chui sang khuẩn ty kia để tạo thành
khuẩn ty thứ cấp chứa 2 nhân. Đảm
bào tử được sinh ra ở đầu khuẩn ty thứ cấp. Tế bào 2
nhân sẽ phát triển thành đảm
còn 2 tế bào kia về sau sẽ tiếp hợp với nhau để tạo
thành tế bào 2 nhân khác. Khi
hình thành đảm, 2 nhân của tế bào ở đỉnh sẽ kết hợp
với nhau, sau đó phân chia liên
tiếp 2 lần (lần đầu giảm nhiễm) để tạo thành 4 nhân
con. Tế bào phình to ra, phía
trên tạo thành 4 cuống nhỏ gọi là thể bình
(sterigmata), mỗi nhân con sẽ chui vào
trong một cuống nhỏ và phát triển dần thành một bào
tử đảm.
c. Vai trò của nấm mốc:
- Nấm mốc có khả năng phân giải mạnh mẽ các hợp
chất hữu cơ phức tạp,
góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các vòng
tuần hoàn vật chất trong tự nhiên.
- Nhiều nấm mốc được sử dụng rộng rãi trong công
nghiệp chế biến thực
phẩm như sản xuất tương, chao, nước chấm, cồn,
rượu vang, các axit xitric,
gluconic...
- Nấm mốc có khả năng sinh ra nhiều loại enzim như:
amilaza, proteaza,
xenlulaza, pectinaza.
- Nhiều loài nấm mốc có khả năng tích luỹ vitamin
như vitamin B2, caroten,
các chất sinh trưởng như giberelin, auxin và nhiều
loại ancaloit có giá trị chữa bệnh
như pxiloxibin, piloxin, amanitin ...
- Nấm mốc có khả năng tiết ra các chất kháng sinh có
giá trị như: penixilin,
xephalosporin, fuzidin, fumagilin, tripaxidin.
Tuy nhiên nhiều nấm mốc cũng gây nên những bệnh
khá phổ biến và khó
điều trị ở người, gia súc, cây trồng như: hắc lào, nấm
kẽ chân, nấm vảy rồng, nấm
da...; có loài tiết độc tố gây ngộ độc thức ăn như
Aspergillus. Nấm mốc còn là
nguyên nhân gây ra những tổn thất lớn cho mùa
màng, lương thực, thực phẩm, hàng
hoá, các dụng cụ quang học, phim ảnh, sách vở...
d. Phân loại nấm mốc:
Cho đến nay chưa có hệ thống phân loại nấm nào
được tất cả các nhà nấm
học thống nhất công nhận. Tuy nhiên hệ thống phân
loại của G.C. Ainsworth (1973)
được sử dụng rộng rãi hơn cả.