TÓM TẮT
Tản Đà (1889 - 1939), tác gia lớn, là hiện tượng văn học độc đáo và phức tạp vào bậc
nhất trong văn học Việt Nam cận hiện đại. Vị trí của ông trong lịch sử văn học dân tộc khó
có thể thay thế. Tản Đà - “con người của hai thế kỉ”- là gạch nối giữa hai thời kì văn học
cổ điển và hiện đại, người chuẩn bị cho sự ra đời của Thơ mới 1932 - 1945. Cũng có thể
xem ông là người mở đầu cho văn học Việt Nam hiện đại.
Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về Tản Đà, nhưng vẫn chưa đủ. Nghiên
cứu về Tản Đà, dù là ở phương diện con người hay sáng tác của ông, vẫn còn là nhu cầu
cần thiết và lâu dài. Bài viết này xin được giới thiệu một khía cạnh nghiên cứu Tản Đà từ
tác giả nhà nho tài tử đến kiểu tác giả lãng mạn hiện đại có thể làm tư liệu tham khảo giúp
cho việc dạy – học Tản Đà và Nguyễn Tuân trong nhà trường phổ thông.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tản Đà - Từ nhà nho tài tử đến kiểu tác giả lãng mạn hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011
57
TẢN ĐÀ - TỪ NHÀ NHO TÀI TỬ ĐẾN KIỂU TÁC GIẢ
LÃNG MẠN HIỆN ĐẠI
NGUYỄN THỊ TUYẾT LOAN (*)
TÓM TẮT
Tản Đà (1889 - 1939), tác gia lớn, là hiện tượng văn học độc đáo và phức tạp vào bậc
nhất trong văn học Việt Nam cận hiện đại. Vị trí của ông trong lịch sử văn học dân tộc khó
có thể thay thế. Tản Đà - “con người của hai thế kỉ”- là gạch nối giữa hai thời kì văn học
cổ điển và hiện đại, người chuẩn bị cho sự ra đời của Thơ mới 1932 - 1945. Cũng có thể
xem ông là người mở đầu cho văn học Việt Nam hiện đại.
Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về Tản Đà, nhưng vẫn chưa đủ. Nghiên
cứu về Tản Đà, dù là ở phương diện con người hay sáng tác của ông, vẫn còn là nhu cầu
cần thiết và lâu dài. Bài viết này xin được giới thiệu một khía cạnh nghiên cứu Tản Đà từ
tác giả nhà nho tài tử đến kiểu tác giả lãng mạn hiện đại có thể làm tư liệu tham khảo giúp
cho việc dạy – học Tản Đà và Nguyễn Tuân trong nhà trường phổ thông.
ABSTRACT
Tan Da (1888-1939), a great writer, the unique literary phenomenon and the most
complicated in the near-contemporary Vietnamese literature. His position in the national
history of literature is irreplaceable. Tan Da, “a man of two centuries”, acted as a
transition between two literary periods: classic and modern, and prepared for the coming
of a new kind of poetry (1932-1945). He might be considered as the starter of the
Vietnamese contemporary literature.
There have been a lot of writings and research works about Tan Da, yet not enough. It
can be considered as long and necessary work to study or research on him whether from
the viewpoint of his personality or his writings. This writing will introduce a research
aspect of Tan Da, an amateurish Confucian scholar and contemporary romantic writer,
which can be used as reference for the study and teaching of Tan Da and Nguyen Tuan in
high schools.
(*)
1. Tản Đà từ là nhà nho trở thành nhà
văn chuyên nghiệp. Vào thời gian đó, con
đường văn chương của Tản Đà chưa phải
là bằng phẳng. Tản Đà không giống như
nhà yêu nước vì hoạt động chính trị mà
phải viết văn. Ông cũng không giống như
một số nhà nho khác ăn lương của chính
quyền thực dân để viết báo. Hơn thế, Tản
Đà là nhà nho. Những điều đó ảnh hướng
rất lớn đến sáng tác của Tản Đà. Tản Đà là
(*)
ThS, Trường THPT Võ Thị Sáu, Quận Bình
Thạnh
nhà nho đem văn chương bán phố phường
[3, 15]
Tản Đà thuộc về một gia đình dòng dõi
trâm anh. Từ trẻ ông đã gặp những cảnh éo
le, những vấp váp gây thành những vết
thương lòng trầm trọng: mấy lần hỏng thi,
mối tình đầu tan vỡ và những chuyện đau
lòng trong gia đình. Cậu ấm tài hoa khi học
ở Hà Nội yêu một cô gái đẹp. Chàng trai đa
tình đã đến dạm hỏi, nhưng gia đình đòi
chàng phải có cái ấn tri huyện mới nhận
lời. Đậu cử nhân thì có thể ra tri huyện.
58
Đành chọn con đường ít vinh dự hơn vào
trường Hậu bổ. Nhưng số phận vẫn không
may mắn hơn: hỏng vấn đáp tiếng Pháp!
Đau đớn hơn nữa vừa về đến Hà Nội thì
chàng trai si tình gặp cảnh người đẹp lên xe
hoa về nhà chồng.
Cũng trong thời gian ấy, Tản Đà gặp
một chuyện đau lòng còn lớn hơn vì một sự
xung khắc trong gia đình, bà Phủ Ba, mẹ
đẻ nhà thơ đem theo cô con gái bỏ nhà trở
lại xóm “bình khang”. Đây là một tổn
thương rất lớn cho danh dự của gia đình.
Thất vọng, Nguyễn Khắc Hiếu bỏ học, bỏ
thi, bỏ nhà lên ấp Cổ Đằng ở nhà người
anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện
Kế, sống như người điên dại [2, 167].
Trong tình trạng tinh thần như thế, Tản
Đà đã tế Chiêu Quân ở chùa Tiên. Nhà thơ
van nài Chiêu Quân:
Trời Nam thằng kiết là tôi
Chùa Tiên đất khách khóc người bên
Ngô
Cô với tôi, tôi với cô,
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây.
Tản Đà không đi theo con đường các
cậu ấm thất thế là dựa vào uy thế gia đình
để kiếm ăn quẩn quanh với đám thân hào ở
nông thôn. Ông ra thành phố viết văn để
kiếm sống:
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người, mực người, thuê người in,
Mướn cửa hàng người bán phường
phố
(Hầu Trời)
Chẳng bao lâu sau, thứ văn “ngông” ấy
được đăng lên báo chí và xuất bản thành
tập thơ đầu tay Khối tình con I với bài đề
từ :
Chữ nghĩa Tây, Tầu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy,.
Một mối tơ tằm mấy đoạn vương...
Còn có thơ ca bán phố phường
Theo Trần Đình Hượu, đem văn
chương bán phố phường là đi vào cuộc đời
nhà văn. Cuộc đời đó đòi hỏi Tản Đà trước
hết phải thành thị hoá, phải coi viết Văn là
nghề nghiệp, điều mà nhà nho trước đây
chưa biết đến. Sống ở thành phố, làm nghề
“bán văn buôn chữ” cho công chúng văn
học thành thị, Tản Đà đã cách tân thơ ca,
đã viết tiểu thuyết nói về cái tôi, nói về
cuộc sống bình thường, đặt văn học trước
một sự lựa chọn lãng mạn chủ nghĩa hay
hiện thực chủ nghĩa. Với cuộc đời nhà văn
làm ăn lương thiện để kiếm sống, Tản Đà
đã nếm trải, đã chịu hết vinh nhục của một
nhà văn, đã có những ưu, nhược điểm của
người dân thành thị lúc đó. Tản Đà mở đầu
cho văn học thành thị và trở thành dấu nối
với văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, tiêu biểu hơn bất cứ ai.
2. Thực tế cuộc sống thành thị đã dễ
dàng làm một cấu ấm trở thành nhà văn
mang “túi thơ đi khắp ba kì”, nhưng không
dễ dàng thay đổi tư tưởng và tác phong nhà
nho trong ông. Tác phong nhà nho gây khó
khăn cho ông chủ bút, chủ nhà xuất bản
Tản Đà và cách nghĩ, lí tưởng sống, quan
điểm thẩm mĩ nhà nho gây khó khăn cho
nhà văn, nhà thơ Tản Đà. Ông không nắm
bắt, hiểu và sống được những vấn đề hiện
đại cho nên không hoà mình được vào trào
lưu văn học đang biến chuyển nhanh chóng
vào những năm 30 cuối đời ông.
Văn chương thuộc xu hướng chính
thống. Gắn với Đạo, Lí, vịnh cảnh, vịnh
vật, ca tụng hay phê phán xã hội, bộc lộ
tâm sự đều thể hiện cái tâm đạo lí, cái ta
đạo đức, đều quan tâm đến chức năng giáo
huấn của văn học.
Văn chương thuộc xu hướng phi chính
thống coi trọng tự do, tự tại của cá nhân,
59
mong ước thoát khỏi danh lợi, thoát khỏi
cảnh tù túng của xã hội phong kiến, thoát
khỏi sự gò bó của Nho giáo. Xu hướng sau
thường có trong các nhà nho ẩn dật. Nhưng
hành và tàng, xuất và xử, nếu còn căn cứ
vào chỗ hợp hay không hợp với Đạo, Lí, có
hay không có đạo đức, thì vẫn là cách xử
thế của thánh hiền. Chỉ khi người ta đẩy sự
ẩn dật tới mức phủ nhận trách nhiệm đối
với xã hội, bỏ tinh thần nhập thế, đứng hẳn
về phía triết lí Phật hay Lão - Trang thì trốn
đời, tránh đời mới có ý nghĩa đối lập với
Nho giáo. Về tư tưởng, các nhà nho Việt
Nam vốn không triệt để, nhất quán: đã chủ
trương nhập thế nhưng lại ca ngợi cuộc
sống nhàn tản, thanh cao; đã tránh đời
nhưng lại không rứt được tấm lòng ưu ái vì
nước, vì dân. Những người ẩn dật nhiều khi
lấy triết lí Phật và Lão – Trang để biện
chính, vẫn chỉ đối lập với con đường công
danh bụi bặm, chứ không đối lập với Nho
giáo. Có một mẫu nhà nho khác, như là
gạch nối giữa nhà nho hành đạo và nhà nho
ẩn dật, đó là nhà nho tài tử.
Nhà nho tài tử coi “tài” và “tình”, chứ
không phải đạo đức, làm nên giá trị của
con người. Đó là chỗ để họ tự phân biệt với
người thánh hiền và họ lấy chỗ đó làm điều
tự hào. Người “tài tử” quan niệm “tài”
nhiều cách. Có thể là tài kinh luân như
Nguyễn Công Trứ. Có thể là tài học vấn
như Cao Bá Quát. Có thể là tài cầm quân,
đánh giặc. Nhưng dù đã có tài như vậy, vẫn
phải có thêm tài văn chương, tài cầm kì thi
họa, những thứ nghệ thuật tài hoa, gắn bó
với tình nữa, mới là người tài tử. Người tài
tử mơ ước không chỉ là công danh phú quý,
mà còn là sự nghiệp phi thường “Vòng trời
đất dọc ngang ngang dọc” (Nguyễn Công
Trứ), “Thay con tạo xoay con khí số” (Cao
Bá Quát). Trong điều kiện của chế độ
chuyên chế, muốn có sự nghiệp tất phải
qua con đường công danh làm theo mệnh
vua. Dù có tài, dù kiêu ngạo, người tài tử
cũng không thể qua mặt vua để có sự
nghiệp phi thường được. Chỉ có điều “trí
quân trạch dân” đối với họ là để trổ tài, thử
tài, chứ họ không quan tâm nhiều đến
nghĩa vụ, không coi đó là mục đích cuộc
đời như nhà nho hành đạo.
Đối với nhà nho tài tử có khi cả sự
nghiệp cũng chỉ là thứ quà cho người đẹp,
ấn phong hầu cũng chỉ để đẹp lòng người
đẹp, để có người đẹp. Người tài tử tự thấy
mình hơn người về tài và đương nhiên là
có tài thì có tật, một cái tật dễ thương: đa
tình. Có tài, họ ước ao gặp được vua hiền
để có thể lập nên sự nghiệp. Đa tình, họ
mong có hạnh phúc lớn là gặp được người
đẹp. Gặp được vua hiền là khó, nhưng gặp
được người đẹp còn khó hơn:
Minh quân lương tướng tao phùng dị,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan
(Nguyễn Công Trứ)
Người tài tử muốn có sự nghiệp để
xứng với tài và cũng muốn có mĩ nhân để
xứng với tình. Người tài tử cũng là nhà
nho, nhưng lại coi trọng cá nhân.
Người tài tử quan niệm “đa tình” không
chỉ là say mê sắc đẹp, mà hiểu điều đó theo
nghĩa rộng là dễ xúc động, nhiều tình cảm.
Nhưng vì nhiều tình cảm, họ lại dễ bị lôi
cuốn vì sắc đẹp và có nhiều xúc động nhất
đối với những người tài sắc. Điều đó không
được lễ giáo phong kiến chấp nhận, đồng
tình. Nho giáo không tán thành đa tình vì
“tình” theo thánh hiền thường gắn liền với
“dục” – không phải là tình dục theo kiểu
người ta hiểu ngày nay – mà “dục”, sự ham
muốn, say mê thường dẫn dắt, thường che
lấp, thường làm thui chột cái “tính” tức là
cái “tâm” đạo lí trời cho, có sẵn trong con
người. Tình làm cho con người không nhất
tâm theo lễ, không khép mình vào trật tự.
60
Cho nên Nho giáo khuyến khích một con
người sống theo nghĩa lí khô khan, biết tiết
dục, biết giữ tình cảm có mực thước và nhất
là biết nghiêm cẩn giữ lễ.
Trong tất cả thứ tình, thứ dục, thì Nho
giáo sợ nhất là sắc đẹp đàn bà và tình yêu.
Đó là thứ tình mạnh nhất, thứ dục thiết tha
nhất, thứ đam mê da diết, dai dẳng, bất trị
nhất. Cho nên đối với tình yêu, các nhà nho
tỏ ra có nhiều nghi ngại, đặt ra nhiều lễ tiết,
lo nghĩ, phòng phạm cẩn thận nhất. Họ cho
sắc đẹp là một thứ “làm mất nước tan nhà”,
một điềm “bất tường”. Gia đình xã hội đề
cao người con gái nết na, đoan trang, đảm
đang chứ không đề cao sắc đẹp. Họ đem
“công, dung, ngôn, hạnh” đối lập với tài,
sắc, tình và làm tiêu chuẩn để giáo dục con
gái. Tuy trong tứ đức có “dung”, nhưng nữ
dung không phải là làm cho đẹp, giữ sắc
đẹp, mà giữ cho nét mặt dịu dàng, thuỳ mị,
không kiêu kì; ăn mặc sạch sẽ, tề chỉnh chứ
không cần đẹp. Không chỉ trau chuốt, làm
dáng, mà cả trang điểm son phấn nữa cũng
ở ngoài nữ dung.
Nho giáo đặt ra nhiều lễ tiết ngăn cản
con trai con gái gặp gỡ trò chuyện với nhau,
đặt ra nhiều lời giáo huấn ngăn cấm con gái
say mê văn chương, nghệ thuật, đặt ra
nhiều nghi thức cho hôn lễ nhằm làm cho
đôi vợ chồng mới cưới biết họ lấy nhau để
làm nhiệm vụ với gia đình, ăn ở với nhau
theo nghĩa, đối xử với nhau theo lễ. Vợ
chồng phải biết “kính nhau như khách” chứ
không phải yêu nhau say đắm. Không phải
nhà nho không biết sắc đẹp, không chấp
nhận một thứ tình nào. Trai tài gái sắc chỉ
là lời khen ngợi xứng đôi vừa lứa khi cả hai
bên đều trọn vẹn đức hạnh trung hiếu, đảm
đang. Chế độ phong kiến nghi ngại tài tình,
chèn ép người thị tài, đa tình, cho nên muốn
sống theo tài tình, người tài tử luôn luôn
phải chống lại sự gò bó của lễ giáo, sự khắt
khe của tư tưởng Nho giáo. Trong lịch sử
không ngớt vang lên những lời than vãn
“tài tử đa cùng”, “con tạo ghét tài, ghen
sắc”, “tài mệnh ghét nhau”, “tạo vật ghét sự
trọn vẹn”. Dù than vãn, dù uất ức, nhà nho
tài tử cũng không bao giờ dám chống lại
chế độ chính trị - xã hội, chưa bao giờ dám
chống ý thức hệ nho giáo.
Tản Đà là người mơ ước làm “người
học trò của Khổng Phu Tử ở Á Đông”, đến
già vẫn day dứt về nỗi chưa làm tròn sứ
mệnh trời giao “đem thiên lương của nhân
loại” “xuống thuật cho đời hay”. Nhưng
Tản Đà là nhà nho tài tử, tự coi mình là có
tài và đa tình. Ông tự phụ về tài văn
chương:
Xuống ngọn bút mưa sa, gió táp
Vạch câu thơ quỷ thảm, thần kinh
Ở hạ giới không phải nhiều người hiểu
được giá trị của văn chương Tản Đà nhưng
trên tiên giới thì:
Trời lại phê cho văn thật tuyệt,
Văn trần được thế chắc có ít
(Hầu Trời)
Nhìn vào ảnh mình, Tản Đà tự trào
một cách duyên dáng:
Người đâu cũng giống đa tình,
Tưởng là ai, lại là mình với ta
Tản Đà sinh ra và lớn lên trong lúc xã
hội tư sản đã quy định vận mệnh con
người.
Phận nam nhi tang bồng là chi,
Chữ trượng phu ý khí nhường ai.
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mài lòng son.
Đó là một sự nghiệp cá nhân và dựa
vào tài văn chương. Dù có muốn đua chen
trong doanh hoàn thì người trượng phu
không chịu nhường ai cũng chỉ có “Quyết
đem bút sắt mà mài lòng son”. Nhưng ở
vào thời đại con người đã trở nên thiết
thực, văn chương, dù là “văn chương nết
61
đất, thông minh tính trời”, cũng không đủ
xiêu lòng một cô gái không đến nỗi bắc bậc
kiêu kì! Số phận người tài tử không được
tạo hoá ưu đãi hơn. Tản Đà không như
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, nhưng
cũng không còn được chiêm ngưỡng, tán
thưởng bằng. Trong cái xã hội san bằng đi
nhiều sự cách biệt “không ai toàn tài mà
cũng không ai đến vô tài”, Tản Đà không
kiêu ngạo như Nguyễn Công Trứ và Cao
Bá Quát. Tuy đa tình nhưng cũng không
quá khó tính đến mức cố chấp:
Chưa qua biển rộng khôn là sóng,
Trừ đến non vu chẳng có mây
Đối với mĩ nhân, ông cũng đã dễ tính
hơn nhiều. Quy luật phát triển của người
tài tử trong xã hội phong kiến là đi đến
ngông cuồng, ít nhiều mang tính chất phá
phách. Tản Đà cũng đi đến ngông cuồng.
Nhưng cái ngông cuồng của Tản Đà hiền
lành, ít chống đối hơn. Thời đại, cuộc sống
xã hội tư sản, giai cấp và hoàn cảnh riêng
làm cho con người cuả ông tài tử vấp váp,
không phát triển theo hướng thị tài, ngông
nghênh, phá phách, mà theo hướng đa tình
và cuối cùng phóng túng, hưởng lạc.
Tản Đà là nhà nho mà không phải nhà
nho chính thống. Ông là nhà nho tài tử, cuối
mùa sống trong một môi trường khác trước:
xã hội tư sản. Với hai điều vừa nói ở trên
chúng ta hiểu rõ hơn Tản Đà đã mang cái gì
mới vào văn học lúc đó, tìm ra chỗ nhất quán
giữa mâu thuẫn chồng chất trong hiện tượng
Tản Đà, hiểu rõ hơn vì sao lúc đầu ông được
hoan nghênh nhiệt liệt, nhưng chỉ sau một
thời gian ngắn ông lại bị công chúng bỏ
quên. Với tất cả những cái đó chúng ta lại
hiểu thêm một mặt khác của con đường phát
triển có quy luật từ văn học trung đại chuyển
sang văn học hiện đại [2, 175]
3. Trong lịch sử văn học Việt Nam,
Tản Đà là nhà văn lớn với phong cách độc
đáo và tài hoa. Vị trí của Tản Đà trong lịch
sử văn học dân tộc khó có thể thay thế. Tản
Đà sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời,
giao thời giữa hai thời đại: trung đại và
hiện đại, giao thời giữa hai phạm trù văn
hoá, văn học: văn hoá, văn học cổ truyền
và văn hoá, văn học hiện đại, giao thời giữa
hai loại hình tác giả văn học: nhà nho tài tử
và nhà văn lãng mạn hiện đại... Ông là con
người của hai thế kỉ, là nhà nho tài tử “đem
văn chương bán phố phường” trong xã hội
tư sản. Tản Đà trở thành chiếc cầu nối giữa
hai phạm trù văn hoá, văn học, giữa hai
loại hình tác giả. Không có Tản Đà, điều dễ
thấy là giữa hai phạm trù văn hoá, văn học,
giữa hai loại hình tác giả ấy sẽ có sự đứt
đoạn. Trên con đường đi đến hiện đại, văn
hoá, văn học Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng
từ nhiều nguồn nhất là ảnh hưởng từ
phương Tây, nhưng không thể không có
nguồn truyền thống. Trách nhiệm và vinh
dự này thuộc về Tản Đà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Mạnh Bổng, (lời giới thiệu), (1952), Tản Đà vận văn toàn tập, NXB
Hương Sơn, Hà Nội.
2. Phan Cự Đệ - Trần Đình Hượu - Nguyễn Trác - Nguyễn Hoành Khung - Lê Chí
Dũng - Hà Văn Đức, (2000), Văn học Việt Nam (1900 -1945), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
62
3. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Đức Mậu, tuyển chọn và giới thiệu, (2003), Tản Đà về tác
gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Trần Đình Hượu, (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại, NXB Văn
hoá - thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Khắc Xương, (2002), Tản Đà toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
6. Nguyễn Khắc Xương, (1995), Tản Đà thơ và đời, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội.
7. Nguyễn Khắc Xương, (1996), Tuyển tập Tản Đà, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội.