Cơ chế này được thực hiện thí điểm vào những năm 2002, 2003, và được áp dụng rộng rãi từ năm 2006, từ sau khi Luật Quản lý thuế ra đời. Đây là bước cải cách quản lý thuế theo hướng hiện đại, tiến bộ, hạn chế việc tiếc xúc trực tiếp với đối tượng nộp thuế nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả quản lý và chống thất thu. Một trong những kỹ năng có liên quan mà cán bộ quản lý thuế phải trau dồi và nâng cao hơn nữa là việc phân tích BCTC của doanh nghiệp (DN).
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 13 trang
13 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2066 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường phân tích báo cáo tài chính với cơ chế tự khai, tự nộp thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tăng cường phân tích báo cáo tài chính 
với cơ chế tự khai, tự nộp thuế 
Việt Nam đã và đang thực hiện cơ chế quản lý thuế mới, 
người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế với chủ trương tăng 
cường tính chủ động, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật 
trong thực hiện nghĩa vụ thuế của các tổ chức, cá nhân. 
Cơ chế này được thực hiện thí điểm vào những năm 2002, 2003, 
và được áp dụng rộng rãi từ năm 2006, từ sau khi Luật Quản lý 
thuế ra đời. Đây là bước cải cách quản lý thuế theo hướng hiện 
đại, tiến bộ, hạn chế việc tiếc xúc trực tiếp với đối tượng nộp thuế 
nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả quản lý và chống thất thu. Một 
trong những kỹ năng có liên quan mà cán bộ quản lý thuế phải 
trau dồi và nâng cao hơn nữa là việc phân tích BCTC của doanh 
nghiệp (DN). 
Phân tích BCTCDN tại cơ quan thuế 
Theo quy định hiện hành, BCTC của DN được lập và gửi cho cơ 
quan quản lý thuế trực tiếp chậm nhất là sau 90 ngày từ ngày kết 
thúc năm tài chinh. 
Cơ quan thuế thông qua phân tích BCTC phải đạt được các mục 
tiêu chính sau: Một là, Tổng hợp nắm bắt được doanh thu, lợi 
nhuận thực hiện trong kỳ của DN. Qua đó, tổng hợp tình hình 
thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước; BCTC của DN như 
là một bức tranh phản ánh toàn bộ tình hình tài chinh DN trong kỳ 
kế toán. Nếu tinh thông, người phân tích sẽ nhìn thấy những vấn 
đề nội tại của DN. Trong các chỉ tiêu của BCTC có liên quan đến 
kết quả kinh doanh thì 02 chỉ tiêu quan trọng là doanh thu và lợi 
nhuận thực hiện trong kỳ. Đây cũng là 2 chỉ tiêu liên quan nhiều 
đến xác định nghĩa vụ thuế của DN. Vì thế, không những chủ DN 
mà cơ quan thuế cũng quan tâm đặc biệt đến các chỉ tiêu này 
trên BCTC của DN. 
Hai là, rút ra tính hợp lý hoặc không hợp lý của các chỉ tiêu báo 
cáo qua phân tích tổng hợp các chỉ tiêu liên quan trên BCTC. 
Trong một số trường hợp, DN vì các mục đích khác nhau có thể 
cố tình làm sai lệch các số liệu phản ánh tình hình thực tế của DN 
nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế. Chính việc làm sai lệch số liệu 
của DN sẽ có thể làm “méo mó” báo cáo nộp cho cơ quan thuế, 
trong nhiều trường hợp qua phân tích BCTC, những điểm bất 
hợp lý đó sẽ được phát hiện ngày (trước hết là tính logic). Chẳng 
hạn BCTC DN thể hiện chỉ tiêu tài sản đầu tư hoặc chỉ tiêu tiền 
vay ngoài trong kỳ tăng nhanh nhưng doanh thu không tăng 
tương xứng… 
Ba là, tham mưu về các quyết định và biện pháp kiểm tra, thanh 
tra việc chấp hành pháp luật thuế nhằm đảm bảo xử lý về thuế 
chính xác, kịp thời. Đây cũng chính là các hướng xử lý “hậu phân 
tích BCTC DN”. 
Một số vần đề cần chú trọng khi phân tích BCTC 
Thứ nhất, liên kết phân tích, tổng hợp số liệu qua các năm 
(thường là 3 hoặc 5 năm), đánh giá xu hướng phát triển của DN, 
từ đó, nhận xét tổng quát tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà 
nước. Chỉ khi phân tích tổng hợp số liệu trên BCTC và DN trong 
một thời gian dài nhất định (3 – 5năm) thì người phân tích mới 
đánh giá khá toàn diện tình hình phát triển của DN và qua đó mới 
có cách quản lý phù hợp, chính xác nhất. 
Thứ hai, các chỉ tiêu quan trọng trong phân tích BCTC là doanh 
thu, vốn vay ngắn hạn, chi phí trả cho người lao động (tiền công, 
tiền lương), tài sản cố định, lợi nhuận thực hiện… 
Cần lưu ý phân tích các chỉ tiêu như sử dụng lao động, tăng tài 
sản ngắn với tăng doanh thu tại DN, chi phí nguyên, nhiên liệu… 
Thứ ba, đối với cơ quan thuế, do đặc thù nhiệm vụ được giao thì 
việc đánh giá khái quát nhanh, chính xác tình hình tài chinh và 
hiệu quả kinh doanh của DN là 2 vấn đề rất quan trọng. Điều đó 
có nghĩa không những đảm bảo cách tiếp cận hợp lý cho quản lý 
thu thuế của kỳ hiện tại DN mà còn có cài nhìn toàn diện về xu 
hướng phát triển của DN đó, từ đó mà có các giải pháp quản lý 
“dài hơi” đối với DN. 
Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá khái quát tình 
hình tài chinh của DN là phương pháp so sánh. Người phân tích 
sẽ tiến hành so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc (so sánh bằng 
số tuyệt đối và bằng số tướng đối giản đơn) trên từng chỉ tiêu 
phản ánh khái quát tình hình tài chinh và dựa vào biến động cũng 
như ý nghĩa của từng chỉ tiêu để nêu nhận xét. Để phân tích khái 
quát tình hình tài chinh của DN được chính xác, khắc phục được 
nhược điểm của từng chỉ tiêu đơn lẻ (nếu có), các nhà phân tích 
cần xem xét đồng thời sự biến động của các chỉ tiêu và liên kết 
sự biến động của chúng với nhau. Từ đó, rút ra nhận xét khái 
quát về thực trạng và sức mạnh tài chinh cũng như an ninh tài 
chinh của DN. 
Các chỉ tiêu là căn cứ để đánh giá khái quát tình hình tài chinh 
DN gồm: Tổng số nguồn vốn, hệ số tài trợ (= vốn chủ sở 
hữu/Tổng số nguồn vốn), hệ số tài trợ, hệ số khả năng thanh toán 
tổng quát, hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả 
năng thanh toán nhanh, tỷ suất đầu tư v.v.. 
Bảng đánh giá tổng quát tình hình tài chinh 
STT Chỉ tiêu Kỳ 
gốc 
Kỳ 
phân 
tích 
Kỳ 
phân 
tích so 
với kỳ 
gốc 
+(-) % 
1 Tổng số 
nguồn vốn 
2 Hệ số tài trợ 
3 Hệ số tự tài 
trợ 
4 Hệ số khả 
năng thanh 
toán tổng 
quát 
5 Hệ số khả 
năng thanh 
toán nợ 
ngắn hạn 
6 Hệ số khả 
năng thanh 
toán nhanh 
7 Hệ số khả 
năng thanh 
toán của tài 
sản ngắn 
hạn 
8 Hệ số khả 
năng thanh 
toán của tiền 
và các 
khoản tương 
đương tiền 
9 Tỷ suất đầu 
tư 
10 Suất sinh lời 
của vốn chủ 
sở hữu 
Nội dung quan trọng khác là phân tích hiệu quả kinh doanh. Bản 
thân hoạt động kinh doanh là một hoạt động kiếm lợi nhuận. Bởi 
vây, mối quan tâm thường trực không những của DN, của nhà 
đầu tư mà của các cơ quan quản lý liên quan là hiệu quả kinh 
doanh, lợi nhuận DN thu được. Qua phân tích hiệu quả kinh 
doanh trên các góc độ khác nhau (sức sản xuất, sức sinh lợi, 
suất hao phí…) các nhà quản lý đánh giá hiệu quả kinh doanh và 
khả năng sinh lời của DN, rộng hơn là các nhân tố, các nguyên 
nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời. 
Từ đó, có các đánh giá tổng quát và biện pháp quản lý phù hợp. 
Thứ tư, mẫu biểu cũng như kết cấu, bố cục của các BCTC tuy 
được quy định thống nhất nhưng các vấn đề trong phân tích 
BCTC là rất phong phú, không theo nhất nhất một mô-tip chung 
giống như số lượng các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của riêng 
từng DN. Điều đó đòi hỏi người phân tích phải linh hoạt. Khi phát 
hiện những vấn đề không bình thường trong BCTC của DN cần 
áp dụng các cách nắm bắt khác nhau để đảm bảo hiệu quả. 
Chẳng hạn, với DN thương mại thì cần chú trọng vào các chỉ tiêu 
giá vốn hàng bán trên bảng cân đối kế toán, so sánh với các chỉ 
tiêu có liên quan; tuy nhiên đối với các đơn vị vận tải biển thì cần 
xem xét chỉ tiêu chi phí nhiên liệu và tiền lương, tiền công v.v.. 
Với từng chỉ tiêu, việc phân tích tuyệt đối hay tương đối, so sánh 
tương quan lại phải được vận dụng linh hoạt, phù hợp. 
Thứ năm, đối với cơ quan thuế, trong nhiều trường hợp còn đòi 
hỏi tính nhạy cảm của người phân tích BCTCDN để nếu cần thiết 
có thể tham mưu ra quyết định kịp thời kiểm tra, thanh tra trực 
tiếp DN, xem xét chứng từ, sổ sách cũng như “mục sở thị” thực tế 
DN (Quyết định kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp 
thuế). Kỹ năng này sẽ được hình thành dần trong quá trình khinh 
nghiệm nhất định làm công tác phân tích, kiểm tra báo cáo của 
DN 
Tóm lại, những vấn đề chung của việc phân tích BCTCDN cần 
phải được quán triệt sâu sắc và ngày càng nâng cao hơn. Nó là 
một kỹ năng quản lý và quản trị DN. Điều này càng có ý nghĩa đối 
với cơ quan thuế các cấp khi chuyển sang áp dụng cơ chế quản 
lý thuế mới với DN – cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Thực tế qua 
tổng hợp và quan sát tại các cơ quan thuế cho thấy, nơi nào việc 
kiểm tra tại bàn (tại trụ sở cơ quan thuế) nói chung, phân tích 
BCTC nói riêng được tổ chức rất chặt chẽ và có chất lượng thì 
công tác kiểm tra, thanh tra định kỳ cũng như kiểm tra, thanh tra 
sự vụ tại nơi đó cũng đạt hiệu quả cao hơn nhiều.