Bài mở đầu
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔN HỌC
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
1. Đối tượng nghiên cứu của Pháp luật đại cương
Mỗi ngành khoa học đều có đối tượng nghiên cứu riêng, xác định đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học là việc xem xét phạm vi, các vấn đề, những mối quan hệ mà ngành khoa học đó nghiên cứu. Xác định rõ đối tượng nghiên cứu chính là tiền đề cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngành khoa học, đồng thời để phân biệt giữa ngành khoa học này với khoa học khác. Vì vậy, mặc dù một khách thể nghiên cứu có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học nhưng do có sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu nên mỗi bộ môn khoa học đều có tính độc lập với những tính chất, mục đích và phương pháp nghiên cứu đặc thù của mình, không trùng lặp với các khoa học khác.
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, là một trong những vấn đề cơ bản nhất của đời sống chính trị trong các xã hội có giai cấp. Vì vậy, Nhà nước và Pháp luật được nhiều môn khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng nghiên cứu. Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau: Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, ngược lại Pháp luật chỉ hình thành, phát triển và phát huy hiệu lực bằng con đường nhà nước và dựa vào sức mạnh của Nhà nước. Mối liên hệ mật thiết có tính khách quan đó đòi hỏi cần có sự nghiên cứu và giải thích thống nhất các vấn đề về nhà nước và pháp luật.
“Pháp luật đại cương” là một môn học trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề chung và cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật nói chung và của nhà nước và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Nó nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện về Nhà nước và pháp luật nhằm làm rõ những thuộc tính bản chất của Nhà nước và pháp luật; phát hiện và giải thích những quy luật và những vấn đề có tính quy luật về sự ra đời, tồn tại, phát triển của Nhà nước và Pháp luật; mối quan hệ giữa sự ra đời của Nhà nước và sự hình thành Pháp luật.
139 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tập bài giảng môn học Pháp luật đại cương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------------------
TẬP BÀI GIẢNG MÔN HỌC
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Thái Nguyên, 8/2013
Thái Nguyên, 2010
Bài mở đầu
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔN HỌC
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
1. Đối tượng nghiên cứu của Pháp luật đại cương
Mỗi ngành khoa học đều có đối tượng nghiên cứu riêng, xác định đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học là việc xem xét phạm vi, các vấn đề, những mối quan hệ mà ngành khoa học đó nghiên cứu. Xác định rõ đối tượng nghiên cứu chính là tiền đề cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngành khoa học, đồng thời để phân biệt giữa ngành khoa học này với khoa học khác. Vì vậy, mặc dù một khách thể nghiên cứu có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học nhưng do có sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu nên mỗi bộ môn khoa học đều có tính độc lập với những tính chất, mục đích và phương pháp nghiên cứu đặc thù của mình, không trùng lặp với các khoa học khác.
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, là một trong những vấn đề cơ bản nhất của đời sống chính trị trong các xã hội có giai cấp. Vì vậy, Nhà nước và Pháp luật được nhiều môn khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng nghiên cứu. Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau: Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, ngược lại Pháp luật chỉ hình thành, phát triển và phát huy hiệu lực bằng con đường nhà nước và dựa vào sức mạnh của Nhà nước. Mối liên hệ mật thiết có tính khách quan đó đòi hỏi cần có sự nghiên cứu và giải thích thống nhất các vấn đề về nhà nước và pháp luật.
“Pháp luật đại cương” là một môn học trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề chung và cơ bản nhất của nhà nước và pháp luật nói chung và của nhà nước và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Nó nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện về Nhà nước và pháp luật nhằm làm rõ những thuộc tính bản chất của Nhà nước và pháp luật; phát hiện và giải thích những quy luật và những vấn đề có tính quy luật về sự ra đời, tồn tại, phát triển của Nhà nước và Pháp luật; mối quan hệ giữa sự ra đời của Nhà nước và sự hình thành Pháp luật.
Theo đó, đối tượng nghiên cứu của môn học Pháp luật đại cương bao gồm:
- Những khái niệm, những đặc trưng cơ bản nhất về nhà nước và pháp luật như: nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, vai trò của nhà nước và pháp luật trong lĩnh vực quản lý xã hội; hình thái nhà nước và hệ thống pháp luật; cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Những mối quan hệ, liên hệ cơ bản, điển hình và có tính phổ biến của Nhà nước và pháp luật (giữa Nhà nước và cá nhân, giữa Nhà nước và pháp luật...);
- Những nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thiết lập trật tự pháp luật và pháp chế, xây dựng và thực hiện pháp luật, những phương tiện và giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của nhà nước, của pháp luật.
2. Phương pháp nghiên cứu của Pháp luật đại cương
Phương pháp luận được hiểu là những cơ sở lý thuyết, lập trường và quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu một hiện tượng cụ thể nào đó. Trong môn khoa học này, hiện tượng đó chính là nhà nước và pháp luật.
Môn học “Pháp luật đại cương” có cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học chung cho mọi khoa học, được vận dụng trong tất cả các quá trình, giai đoạn nghiên cứu. Nó xem xét sự vật và hiện tượng trong mối tương quan ới thực tế khách quan và mối quan hệ hiện thực nên giải thích được một cách khoa học bản chất cuả sự vật và hiện tượng.
Phương pháp nghiên cứu là những nguyên tắc và cách thức hoạt động khoa học nhằm đạt tới chân lý khách quan dựa trên cơ sở của sự chứng minh khoa học.
Phương pháp nghiên cứu của môn học nhà nước và pháp luật đại cương là cách thức nghiên cứu, cách thức tiếp cận cụ thể đối tượng nhà nước và pháp luật. Các phương pháp đó bao gồm:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong quá trình nghiên cứu về nhà nước và pháp luật. Phân tích là phương pháp dùng để chia các vấn đề phức tạp ra thành những bộ phận, những yếu tố đơn giản hơn để tiện cho việc nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận, các yếu tố đã được phân tích, vạch ra mối liên hệ giữa chúng nhằm khái quát hoá vấn đề trong sự nhận thức tổng thể.
- Phương pháp trừu tượng khoa học: Đây là phương pháp tư duy trên cơ sở tách cái chung ra khỏi cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung. Nhiệm vụ của môn học “Nhà nước và pháp luật đại cương” là trừu tượng hoá, tư duy gạt bỏ những hiện tượng bề ngoài, những cái ngẫu nhiên, không mang tính quy luật để xây dựng một hệ thống tri thức tổng quát với những khái niệm, phạm trù, những luận điểm cơ bản về nhà nước và pháp luật. Việc sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu nhà nước và pháp luật là một tất yếu và luôn đóng một vai trò rất quan trọng.
- Phương pháp so sánh: áp dụng phương pháp này trong nghiên cứu nhà nước và pháp luật, cho phép người nghiên cứu có thể phát hiện ra những vấn đề mang tính quy luật của các hình thức nhà nước và pháp luật đã tồn tại trong lịch sử; những điểm giống nhau, khác nhau của các hiện tượng đó để tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt, kế thừa được những mặt tích cực, loại bỏ được những mặt hạn chế.
- Phương pháp xã hội học: nghiên cứu những vấn đề của nhà nước và pháp luật dựa trên những tư liệu xã hội cụ thể, thông qua điều tra xã hội học, thăm dò dư luận xã hội.
Tóm lại: Khi nghiên cứu nhà nước và pháp luật cần phải sử dụng một phương pháp luận đúng đắn, kết hợp sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đạt tới những nguyên lý khoa học và kết luận chính xác.
3. Ý nghĩa của môn học
Môn học “Pháp luật đại cương” cung cấp những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật cho sinh viên không chuyên ngành luật, giúp họ tiếp cận bước đầu để có những nhận thức chung nhất về nguồn gốc ra đời của Nhà nước và pháp luật, bản chất và đặc trưng của Nhà nước và pháp luật cũng như vai trò, vị trí của Nhà nước và pháp luật trong lịch sử phát triển của nhân loại; vai trò, vị trí của pháp luật đối với chính Nhà nước và trong đời sống xã hội.
Môn học này cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất về pháp luật, các quy định của một số ngành luật chủ yếu như Luật Dân sự, luật Hình sự..., nhằm mục đích xây dựng ý thức pháp luật XHCN cho sinh viên, tạo điều kiện về tri thức để sinh viên có thể hiểu, tuân thủ và chấp hành đúng đắn, nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước cũng như nội quy, quy chế của nhà trường trong thời gian học tập; nội quy, quy chế của các cơ quan, tổ chức nơi công tác sau khi tốt nghiệp.
4. Nội dung môn học
Nội dung của môn học “Pháp luật đại cương” được xác định trước hết dựa trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của nó và sau nữa là căn cứ vào một số yếu tố khách quan chi phối như: mục tiêu đào tạo, quỹ thời gian cho môn học, nội dung các môn học có liên quan
Từ những cơ sở đó, môn học “Pháp luật đại cương” trình bày những vấn đề cốt yếu nhất như: đại cương về nhà nước và pháp luật, những khái niệm pháp lý cơ bản, hệ thống pháp luật Việt Nam và một số quy định của các ngành luật cơ bản.
Với những nội dung trên, cơ cấu của môn học “Pháp luật đại cương” được trình bày như sau:
Bài mở đầu: Khái quát chung về môn học “Pháp luật đại cương”
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nhà nước
Chương 2: Bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Chương 3: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Chương 4: Những vấn đề cơ bản về pháp luật
Chương 5: Quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật
Chương 6: Quan hệ pháp luật
Chương 7: Vi phạm pháp luật và Trách nhiệm pháp lý
Chương 8: Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật
Chương 9: Ý thức pháp luật và pháp chế XHCN
Chương 10: Hệ thống pháp luật Việt Nam
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc của nhà nước
1.1. Các học thuyết phi Mác-xít về nguồn gốc của Nhà nước
- Thuyết thần quyền: cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế;
- Thuyết gia trưởng: cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội loài người;
- Thuyết bạo lực: cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại;
- Thuyết tâm lý: cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ, ;
- Thuyết “khế ước xã hội”: cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký kết trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới.
Các học thuyết trên đây đều có hạn chế nhất định, đặc biệt là chưa giải thích đúng đắn nguồn gốc ra đời của Nhà nước cũng như bản chất, chức năng của Nhà nước trong mối liên hệ lịch sử của nó. Hầu như các quan điểm này đều sử dụng để biện minh cho sự bất bình đẳng, phân hóa giai cấp và thống trị con người trong xã hội, coi nó như một điều tất yếu. Chỉ đến khi học thuyết của Mác ra đời, mới phản ánh đúng nguồn gốc, bản chất và chức năng của Nhà nước.
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác-LêNin về nguồn gốc của nhà nước
- Quan điểm về nguồn gốc Nhà nước của chủ nghĩa Mác-LêNin được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ăngghen. Đây là tác phẩm được phát triển từ tư tưởng “Quan niệm duy vật về lịch sử” của Mác, tiếp thu và phát triển những thành tựu nghiên cứu “Xã hội cổ đại” của nhà bác học Mỹ - Lewis H.Morgan.
- Chủ nghĩa Mác-LêNin cho rằng:
+ Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa;
+ Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi đã xuất hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA NHÀ NƯỚC THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
a. Chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc bộ lạc và quyền lực xã hội:
- Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu kẻ nghèo, không có sự chiến đoạt tài sản của người khác;
- Cơ sở xã hội: Trên cơ sở thị tộc, thị tộc là một tổ chức lao động và sản xuất, một đơn vị kinh tế - xã hội. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống. Xã hội chưa phân chia giai cấp và không có đấu tranh giai cấp;
- Quyền lực xã hội: Quyền lực chưa tách ra khỏi xã hội mà vẫn gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra và phục vụ lợi ích của cả cộng đồng;
- Tổ chức quản lý: Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, bao gồm tất cả những người lớn tuổi không phân biệt nam hay nữ trong thị tộc. Quyết định của Hội đồng thị tộc là sự thể hiện ý chí chung của cả thị tộc và có tính bắt buộc đối với mọi thành viên. Hội đồng thị tộc bầu ra người đứng đầu như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự, để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc.
b. Sự tan rã của tổ chức thị tộc bộ lạc và sự xuất hiện Nhà nước:
- Sự chuyển biến kinh tế và xã hội:
+ Thay đổi từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các công cụ lao động bằng đồng, sắt thay thế cho công cụ bằng đá và được cải tiến. Con người phát triển hơn cả về thể lực và trí lực, kinh nghiệm lao động đã được tích lũy;
+ Ba lần phân công lao động là những bước tiến lớn của xã hội, gia tăng sự tích tụ tài sản và góp phần hình thành và phát triển chế độ tư hữu;
+ Sự xuất hiện gia đình và trở thành lực lượng đe dọa sự tồn tại của thị tộc. Chế độ tư hữu được củng cố và phát triển;
+ Sự phân biệt kẻ giàu người nghèo và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gia tăng;
+ Sự tan rã của tổ chức thị tộc – bộ lạc: Những yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, chế độ thị tộc đã tỏ ra bất lực;
+ Nền kinh tế mới làm phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc. Sự phân công lao động và nguyên tắc phân phối bình quân sản phẩm của xã hội công xã nguyên thủy không còn phù hợp;
+ Chế độ tư hữu, sự chênh lệch giữa giàu nghèo, sự mâu thuẫn giai cấp đã phá vỡ chế độ sở hữu chung và bình đẳng của xã hội công xã nguyên thủy;
+ Xã hội cần có một tổ chức đủ sức giải quyết các nhu cầu chung của cộng đồng, xã hội cần phát triển trong một trật tự nhất định.
- Xã hội cần có một tổ chức mới phù hợp với cơ sở kinh tế và xã hội mới;
- Sự xuất hiện nhà nước, nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong một “trật tự”.
c. Một số Nhà nước điển hình đầu tiên trong lịch sử
Sự xuất hiện Nhà nước ở các vùng và của các dân tộc khác nhau cũng có những đặc điểm riêng do những điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau. Theo Ănghen có ba hình thức xuất hiện Nhà nước điển hình đó là:
- Nhà nước Aten: Là hình thức thuần túy nhất là nhà nước dân chủ chủ nô nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay trong nội bộ xã hội thị tộc. Từ cuộc cách mạng Xô-lông (594TCN) và Klix-phe (509TCN) dẫn đến sự tan rã toàn bộ chế độ thị tộc, hình thành Nhà nước vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên;
- Nhà nước Rôma: Hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, từ cuộc đấu tranh bởi những người thường dân (Ple-bêi) chống lại giới quý tộc thị tộc La Mã (Pá-tri-sép);
- Nhà nước Giéc-manh: Hình thành khoảng giữa thế kỷ V sau công nguyên, từ việc người Giéc-manh xâm chiếm vùng lãnh thổ rộng lớn của đế chế La Mã cổ đại. Do Nhà nước hình thành không do sự đấu tranh giai cấp, xã hội Giéc-manh vẫn tồn tại chế độ thị tộc, sự phân hóa giai cấp chỉ mới bắt đầu và còn mờ nhạt.
- Sự xuất hiện Nhà nước ở các quốc gia phương Đông: Nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm đã trở thành yếu tố thúc đẩy và mang tính đặc thù trong sự ra đời nhà nước của các quốc gia phương Đông;
+ Nhà nước Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập cổ đại, được hình thành từ rất sớm, hơn 3000 năm trước công nguyên;
+ Ở Việt Nam, từ sự hình thành phôi thai của Nhà nước cuối thời Hùng Vương – Văn Lang đến Nhà nước sơ khai thời An Dương Vương – Âu Lạc năm 208 trước công nguyên.
2. Bản chất và đặc trưng cơ bản của nhà nước
2.1. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC
- “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được” (Lênin toàn tập, Tập 33, NXB Tiến bộ 1976 trang 9);
- Bản chất của Nhà nước được thể hiện qua: Tính giai cấp và tính xã hội.
a. Tính giai cấp: là mặt cơ bản thể hiện tính chất của Nhà nước:
- Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt do giai cấp thống trị tổ chức ra và sử dụng để thực hiện sự thống trị đối với xã hội trên 3 lĩnh vực: kinh tế, chính trị và tư tưởng;
+ Về kinh tế:
* Giai cấp cầm quyền xác lập quyền lực kinh tế bằng cách qui định quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội và quyền thu thuế;
* Giai cấp thống trị có ưu thế về kinh tế so với các giai cấp khác trong xã hội;
* Các giai cấp tầng lớp khác phụ thuộc vào giai cấp thống trị về kinh tế.
+ Về chính trị: Giai cấp cầm quyền xây dựng bộ máy nhà nước và những công cụ bạo lực vật chất như: quân đội, cảnh sát, tòa án, pháp luật (quyền lực chính trị). Nắm được quyền lực chính trị, giai cấp cầm quyền tổ chức, điều hành xã hội theo một trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp mình và buộc các giai cấp khác phục tùng ý chí của giai cấp thống trị;
+ Về tư tưởng: Giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình và tuyên truyền tư tưởng ấy trong đời sống xã hội nhằm tạo ra sự nhận thức thống nhất trong xã hội, tạo ra sự phục tùng có tính chất tự nguyện của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội đối với giai cấp thống trị.
b. Tính xã hội của Nhà nước:
Bên cạnh việc thực hiện các chức năng bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước còn phải giải quyết những công việc vì lợi ích chung của xã hội:
- Tổ chức sản xuất;
- Xây dựng hệ thống thủy lợi;
- Chống ô nhiễm, dịch bệnh;
- Bảo vệ trật tự công cộng.
Kết luận: Nhà nước là hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ yêu cầu của xã hội
2.2. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC
a. Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt:
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội, hoà nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng.
Khi xuất hiện Nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Họ tham gia vào cơ quan nhà nước và hình thành bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ theo ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực công cộng đặc biệt này đã tách khỏi xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc và chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị;
b. Nhà nước có lãnh thổ và phân chia dân cư theo lãnh thổ:
Lãnh thổ, dân cư là các yếu tố hình thành quốc gia. Quyền lực của Nhà nước được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ, nhà nước thực hiện việc phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính, Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lý của nhà nước tập trung, thống nhất. Người dân có mối quan hệ với Nhà nước bằng chế định quốc tịch, chế định này xác lập sự phụ thuộc của công dân vào một nước nhất định và ngược lại nhà nước phải có những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình.
c. Nhà nước có chủ quyền quốc gia:
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của nhà nước về đối nội và độc lập về đối ngoại. Tất cả mọi cá nhân, tổ chức sống trên lãnh thổ của nước sở tại đều phải tuân thủ pháp luật của nhà nước. Nhà nước là người đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội về đối nội và đối ngoại. Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền độc lập tự quyết của Nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn với Nhà nước.
d. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật:
Với tư cách là đại diện chính thức cho toàn xã hội, là người thực thi quyền lực công cộng, duy trì trật tự xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật để quản lý xã hội. Pháp luật do nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế, thuyết phục.
e. Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế:
Nhà nước đặt ra các loại thuế vì nhu cầu nuôi dưỡng bộ máy nhà nước – lớp người đặc biệt tách ra khỏi lao động, sản xuất để thực hiện chức năng quản lý. Chỉ có nhà nước mới được độc quyền quy định các loại thuế và thu thuế vì nhà nước là