1. Mở đầu
Dạy học truyền thống được quan niệm
là dạy học “định hướng nội dung” hay dạy học
“định hướng đầu vào” (điều khiển đầu vào). Đặc
điểm cơ bản (cũng được xem là ưu điểm) của
nó là chú trọng việc trang bị cho người học hệ
thống tri thức khoa học khách quan về nhiều
lĩnh vực khác nhau đã được quy định trong
chương trình dạy học.
Tuy nhiên, dạy học định hướng nội dung
không còn thích hợp do những nguyên nhân
sau:
Một là, ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc
hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc
những nội dung chi tiết trong chương trình
dạy học dẫn đến tình trạng nội dung chương
trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức
hiện đại. Vì thế, việc rèn luyện phương pháp
học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn
trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng
học tập suốt đời.
Hai là, dạy học định hướng nội dung dẫn
đến xu hướng việc kiểm tra, đánh giá chủ yếu
dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức
mà không định hướng vào khả năng vận dụng
tri thức trong những tình huống thực tiễn.
Ba là, do phương pháp dạy học (PPDH)
mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng
ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con
người mang tính thụ động, hạn chế khả năng
sáng tạo và năng động. Do đó, chương trình
giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của xã hội và thị trường lao động đối
với người lao động về năng lực hành động, khả
năng sáng tạo và tính năng động.
Để khắc phục nhược điểm của chương
trình định hướng nội dung, từ những năm 90
của thế kỷ XX đã có nhiều nghiên cứu mới về
chương trình dạy học. Theo đó, chương trình
dạy học định hướng kết quả đầu ra (Outcomes
Based Curriculum - OBC) hay nói rộng hơn là
giáo dục định hướng kết quả đầu ra (Outcome
Based Education - OBE), còn gọi là giáo dục định
hướng năng lực (định hướng phát triển năng
lực) ra đời và ngày càng nhận được sự quan
tâm của nhiều quốc gia, trở thành xu hướng
giáo dục quốc tế.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm
bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực
hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm
chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng
tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm
chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các
tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 52 trang
52 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạp chí Khoa học Xã hội - Nhân văn - Số 6/2018, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 1
S
Ố
 0
6
 N
Ă
M
 2
0
18
Nếu các khoa học chuyên ngành chỉ có giá trị định hướng về một 
lĩnh vực nhất định của hiện 
thực, chẳng hạn, phát minh 
các điốt phát quang xanh, hay 
LED (Light Emitting Diode), 
có khả năng tạo ra các nguồn 
ánh sáng trắng tiết kiệm năng 
lượng và sáng hơn. “Với sự ra 
đời của đèn LED, ngày nay 
chúng ta có thể có nhiều lựa 
chọn lâu dài và hiệu quả hơn 
so với các nguồn ánh sáng 
cũ”,  Reuters  dẫn thông báo 
của Viện Hàn lâm Khoa học 
Hoàng gia Thụy Điển cho hay. 
Hai nhà khoa học Eric Betzig và 
William E. Moerner người Mỹ 
cùng nhà khoa học Stefan W. 
Hell chính thức trở thành chủ 
nhân của giải Nobel hóa học 
2014 vì “sự phát triển của kính 
hiển vi huỳnh quang siêu phân 
giải”, đã cải thiện vượt bậc khả 
năng quan sát của kính hiển 
vi thông thường, vượt qua 
những giới hạn từng được cho 
là không thể, v.v... Còn triết 
học với các nguyên lý và quy 
luật của mình có tác dụng định 
hướng không phải trong một 
phạm vi nhất định nào đấy mà 
Thử bàn về vai trò của triết học
tác động đến khoa học và công nghệ, đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
TS. NGUYỄN THÁI BÌNH 
Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
ở tất cả mọi lĩnh vực. 
Nhận thức khoa học là 
quá trình, tức là hệ thống tri 
thức đang phát triển, bao gồm 
trong mình hai cấp độ cơ bản - 
kinh nghiệm và lý luận. Chúng 
mặc dù có liên hệ với nhau, 
nhưng khác nhau, mỗi cấp độ 
đều có sự đặc thù của mình. 
Sự đặc thù đó là gì?
Trực quan sinh động 
(nhận thức cảm tính) chiếm 
ưu thế ở cấp độ kinh nghiệm, 
yếu tố lý tính và các hình thức 
của nó (phán đoán, khái niệm, 
v.v...) cũng có mặt ở đây, song 
có ý nghĩa lệ thuộc. Do vậy, 
khách thể nghiên cứu chủ yếu 
được phản ánh từ phía những 
mối liên hệ và những biểu hiện 
bên ngoài của mình, đạt được 
nhờ trực quan sinh động và 
biểu thị các mối quan hệ bên 
trong. Việc thu thập dữ liệu, 
việc khái quát sơ bộ chúng, 
việc mô tả dữ liệu quan sát 
và thí nghiệm, việc hệ thống 
hóa, phân loại chúng và “ghi 
nhận dữ liệu khác” - các dấu 
hiệu đặc trưng của nhận thức 
kinh nghiệm.
Nghiên cứu kinh nghiệm 
trực tiếp (không có khâu trung 
gian) hướng vào khách thể của 
mình. Nó “khai thác” khách thể 
nhờ các thủ thuật và phương 
tiện như so sánh, đo lường, 
quan sát, thí nghiệm, phân 
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN2
T
Ạ
P
 C
H
Í 
K
H
O
A
 H
Ọ
C
 C
Ô
N
G
 N
G
H
Ệ
 V
À
 M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G tích, quy nạp. Hơn nữa là 
trong khoa học hiện đại, kinh 
nghiệm lại là mù quáng: nó 
được lập kế hoạch, được lý 
luận kiến tạo, còn sự kiện bao 
giờ cũng có “sức tải lý luận”.
Như vậy, chúng ta làm ra 
“kinh nghiệm” của chúng ta, 
nhà lý luận chỉ ra con đường 
cho người làm thí nghiệm, hơn 
nữa là lý luận chi phối công 
việc thí nghiệm từ kế hoạch 
ban đầu của nó cho tới “bức 
ảnh” cuối cùng của nó trong 
phòng thí nghiệm. Tương ứng 
thì không thể có “ngôn ngữ 
quan sát thuần túy”, vì mọi 
ngôn ngữ đều được “lý luận 
nuôi dưỡng”, còn “các sự kiện 
trần trụi”, được xem xét ở bên 
ngoài và không phụ thuộc vào 
“con mắt lý luận” không phải là 
cơ sở của lý luận.
Cấp độ lý luận của nhận 
thức khoa học được đặc trưng 
bởi sự chiếm ưu thế của yếu tố 
lý tính, các khái niệm, lý luận, 
quy luật, các hình thức khác 
và các “thao tác tư duy”. Trực 
quan sinh động ở đây bị loại 
bỏ, trở thành phương diện lệ 
thuộc (nhưng rất quan trọng) 
của quá trình nhận thức. Nhận 
thức lý luận phản ánh các hiện 
tượng và các quá trình từ phía 
những mối liên hệ nội tại và 
những quy luật củ a chúng, 
những thứ đạt tới nhờ xử lý dữ 
liệu của tri thức kinh nghiệm 
bằng lý tính. Sự xử lý này được 
thực hiện nhờ các hệ thống, sự 
trừu tượng “cấp cao” như khái 
niệm, duy lý, quy luật, phạm 
trù, nguyên tắc, v.v...
Dựa trên các dữ liệu kinh 
nghiệm, ở đây diễn ra quá 
trình tư duy hợp nhất những 
khách thể nghiên cứu, đạt 
tới bản chất của chúng, “vận 
động nội tại”, các quy luật tồn 
tại của chúng - những cái tạo 
thành nội dung cơ bản của các 
lý luận, “tinh hoa” của tri thức 
ở cấp độ này. Nhiệm vụ quan 
trọng nhất của tri thức lý luận 
là đạt tới tri thức khách quan 
với toàn bộ nội dung cụ thể 
và đầy đủ của nó. Khi các thủ 
thuật và phương tiện nhận 
thức được sử dụng rộng rãi là: 
trừu tượng hóa, lý tưởng hóa - 
quá trình tạo ra cá c đối tượng 
thuần túy lý tưởng (điểm, khí 
lý tưởng, v.v...), tổng hợp, diễn 
dịch, đi từ trừu tượng đến 
cụ thể, v.v... Sự hiện diện của 
những cái lý tưởng hóa trong 
nhận thức là tiêu chí về tính 
phát triển của tri thức lý luận 
như “tổ hợp” các mô hình lý 
tưởng xác định.
Đặc điểm đặc trưng của 
nhận thức lý luận là sự định 
hướng của nó vào bản thân 
mình - sự phản tư ở bên trong 
khoa học, tức sự nghiên cứu về 
bản thân quá trình nhận thức, 
về các hình thức, các thủ thuật, 
các phương pháp hệ thống 
khái niệm, v.v...của nó. Sự dự 
báo - tiên đoán khoa học về 
tương lai - được thực hiện trên 
cơ sở sự lý giải lý luận và các 
quy luật đã nhận thức.
Các cấp độ kinh nghiệm 
và lý luận của nhận thức có 
liên hệ với nhau, ranh giới 
giữa chúng ta là tương đối 
và biến đổi. Làm sáng tỏ các 
dữ liệu mới, nghiên cứu kinh 
nghiệm kích thích nhận thức 
lý luận (mà khái quát và giải 
thích chúng), đặt ra cho nó 
các nhiệm vụ mới, phức tạp 
hơn. Mặt khác, phát triển và 
cụ thể hóa nội dung của bản 
thân mình dựa trên cơ sở kinh 
nghiệm, nhận thức lý luận mở 
ra viễn cảnh rộng hơn, mới 
cho nhận thức kinh nghiệm, 
định hướng nó trong việc 
tìm tòi các sự kiện mới, góp 
phần hoàn thiện các phương 
pháp, các phương tiện, v.v...
của nó. Tại các điểm phát triển 
xác định của khoa học, kinh 
nghiệm trở thành lý luận, và 
ngược lại. Song không cho 
phép tuyệt đối hóa một trong 
các cấp độ ấy một cách có hại 
cho cấp độ kia. Chủ nghĩa kinh 
nghiệm quy tri thức khoa học 
như một chỉnh thể về cấp độ 
kinh nghiệm của nó, hạ thấp 
hay hoàn toàn bác bỏ nhận 
thức lý luận. “Sự lý luận suông 
kiểu kinh viện” loại bỏ các sự 
kiện, bác bỏ ý nghĩa của dữ 
liệu kinh nghiệm, tách rời với 
cuộc sống hiện thực. 
Nói về vai trò của triết học 
trong nhận thức khoa học, cần 
chỉ ra hai “mô hình” cực đoan 
đã hình thành trong việc giải 
quyết vấn đề phức tạp này: 
Mô hình thứ nhất: Cách 
tiếp cận triết học trừu tượng 
(triết học tự nhiên, triết học 
lịch sử, v.v...) mà thực chất - 
trực tiếp tách biệt những luận 
điểm chuyên nghành của các 
khoa học riêng biệt từ các 
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 3
S
Ố
 0
6
 N
Ă
M
 2
0
18nguyên tắc triết học chung 
mà không phân tích tư liệu cụ 
thể - thực tế và lý luận - của 
các khoa học ấy. Cách tiếp cận 
như vậy đặc trưng cho các hệ 
thống triết học của Schelling 
và Hegel.
Mô hình thứ hai là: Chủ 
nghĩa thực chứng, theo đó thì 
“khoa học tự thân nó là triết 
học”. Vai trò của triết học trong 
nhận thức khoa học riêng biệt 
hoặc là bị tuyệt đối hóa (trong 
mô hình thứ nhất), hoặc là bị 
hạ thấp hay thậm chí hoàn 
toàn bác bỏ (trong mô hình 
thứ hai). Và mặc dù các kết quả 
hữu ích xác định đã đạt được 
trong cả hai trường hợp, song 
vấn đề nêu trên vẫn chưa được 
giải quyết.
Lịch sử nhận thức trong 
bản thân triết học cho thấy 
rằng ảnh hưởng của nó đến 
quá trình phát triển của khoa 
học, công nghệ và các kết quả 
của khoa học, công nghệ được 
thể hiện ở các luận điểm cơ 
bản sau đây:
Một là: Sự tác động của 
các nguyên tắc triết học đến 
quá trình nghiên cứu khoa 
học bao giờ cũng được thực 
hiện không phải công khai và 
trực tiếp, mà theo con đường 
gián tiếp phức tạp - thông qua 
những phương pháp, những 
hình thức và quan điểm thuộc 
các cấp độ phương pháp luận 
khác - trước hết là cấp độ 
chung khoa học. Hơn nữa, việc 
thực hiện các nguyên tắc triết 
học trong nhận thức khoa học 
cũng có nghĩa là xem xét lại 
chúng, đào sâu, hoàn thiện và 
phát triển nội dung của chúng.
Hai là: Triết học có ảnh 
hưởng đến nghiên cứu khoa 
học ở mọi giai đoạn của nó, 
nhưng ở mức độ lớn nhất là 
khi xây dựng lý thuyết, đặc 
biệt là lý thuyết cơ bản. Điều 
này diễn ra tích cực nhất ở thời 
gian “phá hủy triệt để” các khái 
niệm và các nguyên tắc cơ bản 
đã trụ vững trong quá trình 
cách mạng khoa học. Đương 
nhiên, ảnh hưởng nêu trên có 
thể là tích cự c, cũng như là tiêu 
cực - phụ thuộc vào nội dung 
của triết học mà nhà khoa học 
tuân theo. V.Heisenberg nói: 
“Triết học xấu xa ngấm ngầm 
làm hại vật lý học tốt đẹp”. 
Ngoài ra, cần phả i biết cách 
áp dụng các nguyên tắc triết 
học, một cách phù hợp với 
đối tượng và mục đích nghiên 
cứu, cấp độ của nó, với tính 
chất của các vấn đề giải quyết 
và những điều kiện khác.
Ba là: Triết học có tác 
động quan trọng đến sự phát 
triển của nhận thức khoa học 
nhờ chức năng dự báo trừu 
tượng của mình: Triết học 
xây dựng các tư tưởng và các 
nguyên tắc xác định mà ý 
nghĩa khoa học có thể được 
khẳng định sau một thời gian 
dài (thí dụ, tư tưởng nguyên 
tử luận và biện chứng trong 
triết học cổ đại). Ngoài ra, các 
nguyên tắc triết học hoàn 
thành chức năng chọn lọc khi 
chuyển từ tư biện sang nghiên 
cứu lý luận. Từ vô số kết cấu lý 
tưởng trừu tượng thì nhà khoa 
học sẽ lựa chọn các kết cấu 
phù hợp với các quan niệm 
triết học và phương pháp luận 
của riêng mình.
Bốn là: Cần lưu ý rằng triết 
học chỉ là một trong các yếu tố 
của tìm tòi khoa học, còn các 
nguyên tắc của nó chỉ là một 
trong các nhân tố của sự lựa 
chọn nêu trên, tồn tại cùng với 
kinh nghiệm, trực giác, tưởng 
tượng, v.v... Do vậy, thậm chí 
khi có mặt các nguyên tắc triết 
học “hoàn hảo” thì kết quả tích 
cực vẫn chưa hoàn toàn được 
đảm bảo. Hơn nữa, việc vi 
phạm các nguyên tắc của một 
triết học xác định (thí dụ, triết 
học duy tâm hay siêu hình) 
có thể góp phần (không phải 
luôn luôn) nhận được kết quả 
khoa học đúng đắn.
Năm là: Các phương pháp 
triết học không phải bao giờ 
cũng bộc lộ ra trong quá trình 
nghiên cứu dưới hình thức rõ 
ràng, chúng có thể được áp 
dụng hoặc một cách tự phát, 
hoặc một cách tự giác, cũng 
có thể hoàn toàn bị loại bỏ. 
Nhưng, trong bất kỳ khoa học 
nào cũng có những yếu tố có 
ý nghĩa phổ biến (thí dụ, các 
quy luật, các phạm trù, các 
khái niệm, v.v...) mà biến bất 
kỳ khoa học nào cũng thành 
“lôgíc học ứng dụng”, được 
xuyên suốt bởi thành tố triết 
học.
Sáu là: Triết học đem lại 
cho các khoa học riêng biệt 
những nguyên tắc phương 
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN4
T
Ạ
P
 C
H
Í 
K
H
O
A
 H
Ọ
C
 C
Ô
N
G
 N
G
H
Ệ
 V
À
 M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G pháp luận chung, được hình 
thành dựa trên các phạm 
trù xác định. Những nguyên 
tắc này thật sự hoạt động 
trong khoa học dưới dạng 
các điều tiết phổ biến, các 
chuẩn tắc phổ quát, cùng 
nhau cấu thành chương trình 
phương pháp luận cao cấp 
nhất. Chương trình như vậy 
không được là một lược đồ 
cứng nhắc, một khuôn mẫu, 
mà theo đó thì người ta vạch 
rõ và xây dựng lại sự kiện, mà 
là một hệ thống những điều 
tiết linh hoạt và năng động, 
định hướng nghiên cứu. Hệ 
thống này không được là 
“danh mục các quy tắc”, tổ 
hợp máy móc của chúng, chỉ 
thích hợp về bề ngoài với tư 
liệu khoa học chuyên nghành.
Bảy là: Triết học xây dựng 
bức tranh chung nhất về thế 
giới, các mô hình phổ quát về 
hiện thực mà thông qua đó thì 
nhà khoa học nhìn nhận đối 
tượng nghiên cứu của mình. 
Dựa trên việc tổng hợp mọi 
tri thức, triết học đem lại cái 
nhìn chung về thế giới dưới 
ba chiều cạnh cơ bản của nó: 
Trước đây nó đã là như thế 
nào (quá khứ), bây giờ nó là 
như thế nào (hiện tại) và nó có 
thể và cần phải trở thành như 
thế nào (tương lai). Thể hiện 
thế giới thông qua những đặc 
trưng chung của nó, qua đó 
triết học đem lại cơ sở chung 
để xây dựng các quan niệm 
khoa học riêng biệt về thế giới, 
các quan niệm “hòa hợp” với 
chỉnh thể lớn nhất ấy.
Tám là: Triết học giúp nhà 
nghiên cứu lựa chọn “mạng 
lưới các phạm trù lôgíc”, các 
nguyên tắc, các khái niệm, các 
phương tiện và các hình thức 
nhận thức khác mà phù hợp 
với khoa học hay bộ môn khoa 
học, các phương châm thế 
giới quan và giá trị xác định, 
các định hướng lẽ sống (điều 
này là đặc biệt trong các khoa 
học nhân văn). Nó trang bị cho 
nhà nghiên cứu tri thức về các 
quy luật chung của bản thân 
toàn bộ quá trình nhận thức, 
học thuyết về chân lý và con 
đường (phương pháp) đạt tới 
nó, về bối cảnh văn hóa - xã 
hội của nhận thức, v.v...
Chín là: Các nguyên tắc 
phương pháp luận - triết học 
(thí dụ, các nguyên tắc biện 
chứng) hoàn thành chức năng 
tiêu chuẩn bổ trợ, sinh ra từ 
thực tiễn (dưới mọi hình thức 
của nó) về chân lý: thí dụ, nếu 
chỉ có những sự kiện riêng 
biệt được xem xét, chứ không 
phải toàn bộ tổng thể chúng, 
tức nguyên tắc tính toàn diện 
bị vi phạm, thì có thể nói về 
tính chân thực của các kết 
luận nhận được? Thậm chí các 
nguyên tắc của triết học “tốt” 
nhất trong sự thống nhất của 
chúng cũng không thể thay 
thế cho thực tiễn như tiêu 
chuẩn quyết định (xét đến 
cùng) về chân lý, mà bổ sung 
cho nó. Sự quan tâm ngày 
một tăng đến phương pháp 
biện chứng, sự áp dụng nó 
ngày một rộng rãi hơn vào các 
lĩnh vực khá c nhau - đặc điểm 
quan trọng của khoa học thế 
kỷ XX (được biểu thị qua các 
thuật ngữ “biện chứng hóa”, 
“lịch sử hóa”). Thí dụ điển hình 
cho xu hướng này là ý định 
của người đoạt giải Noben, 
I.Prigozhin dùng thời gian 
để “hợp nhất tồn tại và sinh 
thành” (phát triển) với vai trò 
hàng đầu của sinh thành, từ 
lập trường thống nhất của 
nguyên tắc lịch sử và nguyên 
tắc tự tổ chức của vật chất mà 
nắm bắt thế giới vĩ mô và cả 
thế giới vi mô như một chỉnh 
thể thống nhất.
Từ toàn bộ những vấn đề 
trên đây luôn đặt ra yêu cầu 
phải kết hợp chặt chẽ cả hai 
loại tri thức: Tri thức chung 
(bao gồm tri thức triết học và 
tri thức chuyên ngành- khoa 
học, công nghệ) và tri thức 
thực tiễn (bao gồm sự hiểu 
biết tình hình thực tiễn và 
trình độ chuyên môn được 
hình thành trong thực tiễn), 
để giải quyết một cách có hiệu 
quả những vấn đề cụ thể hết 
sức phức tạp và vô cùng đa 
dạng của cuộc sống đặt ra./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Về mối quan hệ giữa triết 
học và khoa tự nhiên. Nxb. Khoa 
học, H.1973.
2. Lê Hữu Nghĩa(chủ biên): 
Thời đại chúng ta và sức sống của 
chủ nghĩa Mác-Lênin , Nxb.Chính trị 
quốc gia, H.2002.
3. GEORGE FRIEDMAN: 100 
năm tới dự báo cho thế kỷ XXI, Nxb.
Chính trị quốc gia, H.2010. 
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5
S
Ố
 0
6
 N
Ă
M
 2
0
18
1. Mở đầu
Dạy học truyền thống được quan niệm 
là dạy học “định hướng nội dung” hay dạy học 
“định hướng đầu vào” (điều khiển đầu vào). Đặc 
điểm cơ bản (cũng được xem là ưu điểm) của 
nó là chú trọng việc trang bị cho người học hệ 
thống tri thức khoa học khách quan về nhiều 
lĩnh vực khác nhau đã được quy định trong 
chương trình dạy học. 
Tuy nhiên, dạy học định hướng nội dung 
không còn thích hợp do những nguyên nhân 
sau:
Một là, ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc 
hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc 
những nội dung chi tiết trong chương trình 
dạy học dẫn đến tình trạng nội dung chương 
trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức 
hiện đại. Vì thế, việc rèn luyện phương pháp 
học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn 
trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng 
học tập suốt đời.
Hai là, dạy học định hướng nội dung dẫn 
đến xu hướng việc kiểm tra, đánh giá chủ yếu 
dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức 
mà không định hướng vào khả năng vận dụng 
tri thức trong những tình huống thực tiễn.
Ba là, do phương pháp dạy học (PPDH) 
mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng 
ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con 
người mang tính thụ động, hạn chế khả năng 
sáng tạo và năng động. Do đó, chương trình 
giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày 
càng cao của xã hội và thị trường lao động đối 
với người lao động về năng lực hành động, khả 
năng sáng tạo và tính năng động. 
Để khắc phục nhược điểm của chương 
trình định hướng nội dung, từ những năm 90 
của thế kỷ XX đã có nhiều nghiên cứu mới về 
chương trình dạy học. Theo đó, chương trình 
dạy học định hướng kết quả đầu ra (Outcomes 
Based Curriculum - OBC) hay nói rộng hơn là 
giáo dục định hướng kết quả đầu ra (Outcome 
Based Education - OBE), còn gọi là giáo dục định 
hướng năng lực (định hướng phát triển năng 
lực) ra đời và ngày càng nhận được sự quan 
tâm của nhiều quốc gia, trở thành xu hướng 
giáo dục quốc tế. 
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm 
bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực 
hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm 
chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng 
tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm 
chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các 
tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Những nhận thức cơ bản về dạy học theo
định hướng phát triển năng lực
ThS. NGUYỄN VĂN HIỀN 1 
ThS. NGUYỄN THỊ BÌNH2
Sự gia tăng liên tục của khối lượng tri thức nhân loại do tốc độ phát triển như 
vũ bão của khoa học - công nghệ đã làm cho dạy học truyền thống theo hướng 
tiếp cận nội dung dần trở nên lạc hậu. Xu thế thiết kế chương trình dạy học theo 
hướng mới, tiếp cận năng lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng trong 
giai đoạn hiện nay. Cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn người 
học biết và có thể làm được những gì? 
(1) Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai
(2) Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6
T
Ạ
P
 C
H
Í 
K
H
O
A
 H
Ọ
C
 C
Ô
N
G
 N
G
H
Ệ
 V
À
 M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G
Chương trình dạy học định hướng năng lực 
không quy định những nội dung dạy học chi 
tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong 
muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa 
ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn 
nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá 
kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được 
mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra 
mong muốn. Theo đó, mục tiêu học tập, tức là 
kết quả học tập mong muốn thường được mô 
tả thông qua hệ thống các năng lực, được mô 
tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được học 
sinh cần đạt được những năng lực yêu cầu đã 
quy định trong chương trình. 
2. Năng lực và cấu trúc của năng lực
Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả 
năng thực hiện của cá nhân đối với một công 
việc. Ngày nay, khái niệm năng lực được hiểu 
nhiều nghĩa khác nhau, nhưng cách hiểu phổ 
biến được diễn tả: Năng lực là một thuộc tính 
tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố 
như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn 
sàng hành động và trách nhiệm. 
Trong chương trình dạy học định hướng 
phát triển năng lực, mục tiêu dạy học của 
chương trình được mô tả thông qua các nhóm 
năng lực. Các năng lực còn là những đòi hỏi của 
các công việc, các nhiệm vụ, và các vai trò vị trí 
công việc. Vì vậy, các năng lực được xem như là 
những phẩm chất tiềm tàng của một cá nhân 
và những đòi hỏi của công việc. 
Theo quan điểm trong chương trình dạy 
học hiện nay của các nước thuộc OECD (Tổ chức 
Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization 
for Economic Cooperation and Development), 
năng lực được phân chia thành hai nhóm chính, 
đó là các năng lực chung và các năng lực chuyên 
môn (năng lực chuyên biệt).
Năng lực chung  là năng lực cơ bản, thiết 
yếu để con người có thể sống và làm việc bình 
thường trong xã hội. Năng lực này được hình 
thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan 
đến nhiều môn học. Đây là loại năng lực được 
hình thành xuyên chương trình. 
Mỗi năng lực chung góp phần tạo nên kết 
quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng, giúp 
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7
S
Ố
 0
6
 N
Ă
M
 2
0
18cho các cá nhân đáp ứng đư