Trong truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam đã hình thành một hệ giá trị nói chung, hệ giá trị văn
hoá sinh thái nói riêng mà cốt lõi của nó là những giá trị đạo đức sinh thái. Những giá trị đạo đức sinh
thái đó đã quy định, chi phối cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên trong xã hội truyền thống.
Nếu như trước đây, con người yêu thiên nhiên, quý trọng thiên nhiên bởi vẻ đẹp và giá trị vốn có của
nó, thì ngày nay, ngược lại, con người, với lợi ích ích kỷ trước mắt của mình, chỉ nhìn thấy các giá trị sử
dụng và thực dụng của thiên nhiên. Tất cả các loại tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất đai, nước,
khoáng sản, động thực vật, . đều đang bị con người khai thác đến cạn kiệt, sử dụng lãng phí đưa đến
ô nhiễm nặng nề môi trường sống. Ở nước ta, hiện tượng đó diễn ra đặc biệt rõ khi chúng ta tiến hành
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc xây dựng ý thức, đạo đức sinh thái đặt ra hết sức cấp thiết. Đạo đức sinh thái là sự phản ánh
về phương diện đạo đức hiện thực mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Ý thức, quan niệm đạo đức
sinh thái mới phải được xây dựng trên nền tảng triết lý hài hoà giữa con người và thiên nhiên và trên cơ
sở lý tưởng đạo đức “Thiên - Nhân hoà đồng” hiện đại, đó chính là ý thức sinh thái mới, xuất hiện cùng
với thời đại. Có thể hiểu ý thức sinh thái mới là sự nhận thức một cách tự giác của con người về tự
nhiên, về vị trí, vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và về trách nhiệm, nghĩa vụ của
con người trong việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ đó. Điều này chỉ có thể có được
bằng con đường tuyên truyền giáo dục dưới tất cả mọi hình thức như: Giáo dục về môi trường trong
các trường học từ phổ thông cho đến đại học, giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
như sách, báo, truyền thanh, truyền hình, dần dần cung cấp cho con người những tri thức sinh thái cần
thiết, trên cơ sở đó hình thành nên ý thức sinh thái mới. Quan hệ đạo đức sinh thái thể hiện trước tiên
qua quan hệ lợi ích. Quan hệ lợi ích giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người
trong xã hội.
So với các biện pháp kinh tế và luật pháp, sự điều chỉnh lợi ích bằng đạo đức đòi hỏi ở con người
một trình độ nhận thức cao hơn - trình độ tự ý thức. Đối với đạo đức sinh thái, sự tự ý thức này còn đòi
hỏi ở mức độ cao hơn. Bởi vì, trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không có sự phù hợp trực
tiếp về lợi ích giữa chủ thể đạo đức (con người) với khách thể đạo đức (tự nhiên). Trong mối quan hệ
với tự nhiên, đạo đức sinh thái đòi hỏi ở con người một sự tự giác rất cao. Sự tự giác này chỉ có thể có
được khi con người thật sự hiểu biết về tự nhiên, hiểu biết được vai trò và vị trí của mình trong quan
hệ với nó và có một tình yêu thiên nhiên lành mạnh, trong sáng. Hành vi đạo đức sinh thái là biểu hiện
cao nhất của đạo đức sinh thái. Hành vi đạo đức được điều chỉnh bởi một hệ chuẩn các giá trị đạo đức
sinh thái.
56 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạp chí Tài nguyên và môi trường - Số 17 - 9/2017, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tỉng Biªn tËp
TS. Chu Th¸i Thµnh
Phã Tỉng Biªn tËp
ThS. KiỊu ®¨ng tuyÕt
ThS. trÇn ThÞ CÈm Thĩy
Tßa so¹n
TÇng 5, L« E2, K§T CÇu GiÊy
Dư¬ng §×nh NghƯ, CÇu GiÊy, Hµ Néi
§iƯn tho¹i: 024.37733419
Fax: 024.37738517
V¨n phßng Thưêng trĩ t¹i TP. Hå ChÝ Minh
Phßng A604, tÇng 6, Tßa nhµ liªn c¬ Bé
TN&MT, sè 200 Lý ChÝnh Th¾ng,
phưêng 9, quËn 3, TP. Hå ChÝ Minh
§iƯn tho¹i: 028.62905668
Fax: 0283.8990978
Ph¸t hµnh - Qu¶ng c¸o
§iƯn tho¹i: 024.37738517
Email
tapchitnmt@yahoo.com
banbientaptnmt@yahoo.com
ISSN 1859 - 1477
GiÊy phÐp xuÊt b¶n
Sè 1791/GP-BTTTT Bé Th«ng tin vµ
TruyỊn th«ng cÊp ngµy 01/10/2012.
Gi¸ b¸n: 15.000 ®ång
T¹p chÝ
Tµi nguyªn vµ M«i trƯêng
Xã luận: Xây dựng đạo đức, ý thức sinh thái
VÊn ®Ị - Sù kiƯn
Đặng Trần Hiếu: Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực Tài nguyên và
Môi trường
Häc tËp vµ lµm theo tÊm gƯ¬ng ®¹o ®øc Hå ChÝ Minh
PGS. TS. Trương Minh Tạo: Bác Hồ với công tác đánh giá cán bộ
§iĨn h×nh tiªn tiÕn ngµnh tµi nguyªn vµ m«i trƯêng
Nguyễn Văn Hùng: Bài học kinh nghiệm trong phòng chống lũ quét, lũ ống ở Sơn La
Nghiªn cøu - Trao ®ỉi
TS. Nguyễn Hải Yến: Giải pháp thực thi các cam kết môi trường trong các hiệp định
thương mại tự do
TS. Bùi Đức Hiển: Mấy vấn đề lý luận về điều chỉnh pháp luật bảo vệ môi trường
nước lưu vực sông ở Việt Nam hiện nay
Phạm Thành Nhơn, PGS.TS. Nguyễn Hiếu Trung:Ứng dụng mô hình toán ba chiều mô phỏng
diễn biến chất lượng nước lưu vực sông Hậu theo xu thế phát triển kinh tế -
xã hội - kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng
Lê Anh Kha, Đặng Minh Ngọc, Trương Hoàng Đan, Trần Thị Ngọc Sơn: Khảo sát đặc tính khử
nitrate của vi khuẩn Brevibacillus parabrevis
ThS. Nguyễn Thị Phương Hoa, ThS. Ngô Mạnh HaØ, ThS. Nguyễn Hồng Hiếu, Trương Quảng Đại, Nguyễn Khánh
Toàn, Trần Thị Diễn, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Thị Mai: Quy định bộ dữ liệu, chuẩn dữ liệu
về tài nguyên nước
ThS. Trần Thị Diễn, ThS. Ngô Mạnh Hà, ThS. Nguyễn Thị Mai, ThS. Nguyễn Tuấn Anh, ThS. Nguyễn Văn Nghĩa:
Áp dụng mô hình toán thủy văn, thủy lực để đánh giá, xác định dòng chảy
tối thiểu trên dòng chính sông Trà Khúc
ThS. Ngô Mạnh HaØ, ThS. Nguyễn Văn Nghĩa, ThS. Trần Thị Diễn, ThS. Nguyễn Thị Mai, ThS. Nguyễn Tuấn Anh:
Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng hướng dẫn đánh giá dòng
chảy tối thiểu trên sông
Bạch Long Giang, Trần Văn Thuận: Nghiên cứu đánh giá khả năng hấp phụ thuốc
nhuộm anion Congo Red trong môi trường nước của vật liệu có cấu trúc
nano Graphene oxide-CoFe2O4
ThS. Nguyễn Ngọc Vũ: Xây dựng ontology tài nguyên và môi trường phục vụ tích
hợp dữ liệu và tìm kiếm ngữ nghĩa
Thùc tiƠn - Kinh nghiƯm
ThS. Trần Hoài Thu: Bảo vệ môi trường tại các làng nghề truyền thống trên địa bàn
Hà Nội
Lê Anh Tuấn: Chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên và
môi trường
Nguyễn Quỳnh Trang: Quản lý rừng tự nhiên bền vững trong bối cảnh thích ứng với
biến đổi khí hậu
Chu Hương Trà: Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững ở Nghệ An
NhÞp cÇu b¹n ®äc
nh×n ra thÕ giíi
Nguyễn Thị Hương: Bảo đảm an ninh lương thực, thích ứng biến đổi khí hậu
v¨n ho¸ - v¨n nghƯ
Hà Khanh: Phát triển văn hóa trong khai thác tài nguyên nước
Sè 17 (271)
Kú 1 - Th¸ng 9 n¨m 2017
2
3
4
5
7
9
12
18
21
23
25
27
30
33
35
38
42
52
53
55
Mơc lơc
Môi trường sống ở nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng phức tạp, bức xúc cả trên bình diệncạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên lẫn ô nhiễm môi trường tự nhiên và môi trường xãhội. Làm thế nào để con người có thể thực sự sống hài hoà với thiên nhiên trong một xã hội
vẫn tiếp tục phát triển bền vững là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt.
Trong truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam đã hình thành một hệ giá trị nói chung, hệ giá trị văn
hoá sinh thái nói riêng mà cốt lõi của nó là những giá trị đạo đức sinh thái. Những giá trị đạo đức sinh
thái đó đã quy định, chi phối cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên trong xã hội truyền thống.
Nếu như trước đây, con người yêu thiên nhiên, quý trọng thiên nhiên bởi vẻ đẹp và giá trị vốn có của
nó, thì ngày nay, ngược lại, con người, với lợi ích ích kỷ trước mắt của mình, chỉ nhìn thấy các giá trị sử
dụng và thực dụng của thiên nhiên. Tất cả các loại tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất đai, nước,
khoáng sản, động thực vật, ... đều đang bị con người khai thác đến cạn kiệt, sử dụng lãng phí đưa đến
ô nhiễm nặng nề môi trường sống. Ở nước ta, hiện tượng đó diễn ra đặc biệt rõ khi chúng ta tiến hành
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việc xây dựng ý thức, đạo đức sinh thái đặt ra hết sức cấp thiết. Đạo đức sinh thái là sự phản ánh
về phương diện đạo đức hiện thực mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Ý thức, quan niệm đạo đức
sinh thái mới phải được xây dựng trên nền tảng triết lý hài hoà giữa con người và thiên nhiên và trên cơ
sở lý tưởng đạo đức “Thiên - Nhân hoà đồng” hiện đại, đó chính là ý thức sinh thái mới, xuất hiện cùng
với thời đại. Có thể hiểu ý thức sinh thái mới là sự nhận thức một cách tự giác của con người về tự
nhiên, về vị trí, vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và về trách nhiệm, nghĩa vụ của
con người trong việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ đó. Điều này chỉ có thể có được
bằng con đường tuyên truyền giáo dục dưới tất cả mọi hình thức như: Giáo dục về môi trường trong
các trường học từ phổ thông cho đến đại học, giáo dục thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
như sách, báo, truyền thanh, truyền hình, dần dần cung cấp cho con người những tri thức sinh thái cần
thiết, trên cơ sở đó hình thành nên ý thức sinh thái mới. Quan hệ đạo đức sinh thái thể hiện trước tiên
qua quan hệ lợi ích. Quan hệ lợi ích giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người
trong xã hội.
So với các biện pháp kinh tế và luật pháp, sự điều chỉnh lợi ích bằng đạo đức đòi hỏi ở con người
một trình độ nhận thức cao hơn - trình độ tự ý thức. Đối với đạo đức sinh thái, sự tự ý thức này còn đòi
hỏi ở mức độ cao hơn. Bởi vì, trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không có sự phù hợp trực
tiếp về lợi ích giữa chủ thể đạo đức (con người) với khách thể đạo đức (tự nhiên). Trong mối quan hệ
với tự nhiên, đạo đức sinh thái đòi hỏi ở con người một sự tự giác rất cao. Sự tự giác này chỉ có thể có
được khi con người thật sự hiểu biết về tự nhiên, hiểu biết được vai trò và vị trí của mình trong quan
hệ với nó và có một tình yêu thiên nhiên lành mạnh, trong sáng. Hành vi đạo đức sinh thái là biểu hiện
cao nhất của đạo đức sinh thái. Hành vi đạo đức được điều chỉnh bởi một hệ chuẩn các giá trị đạo đức
sinh thái.
Việc sử dụng dư luận xã hội, phong tục, tập quán để điều chỉnh hành vi của con người trong điều
kiện nước ta là vô cùng cần thiết. Bởi vì, luật pháp chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa thấm vào
ý thức của con người. Đó là một khó khăn lớn mà con người không thể dễ dàng khắc phục được.
Song, một tín hiệu đáng khích lệ đang dần dần được phổ biến là ở nhiều thôn, xã nước ta đã tiến
hành xây dựng các bộ Hương ước mới, góp phần điều chỉnh hành vi, ý thức, đạo đức giữa con người
với thiên nhiên.
Tạp chí Tài nguyên và Môi trường
Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 1 - Th¸ng 9/20172
Xã luận
Xây dựng ý thức, đạo đức sinh thái
3Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 1 - Th¸ng 9/2017
Ngày 18/8/2017, Chính phủđã ban hành Nghị quyếtsố 79/NQ-CP về đơn giản
hóa thủ tục hành chính, giấy tờ
công dân liên quan đến quản lý
dân cư thuộc phạm vi chức năng
QLNN của Bộ TN&MT.
Theo đó, sẽ đơn giản hóa một
số thủ tục hành chính trong lĩnh
vực: Đất đai, môi trường, địa chất
và khoáng sản, tài nguyên nước.
Cụ thể, ở lĩnh vực đất đai,
nhóm thủ tục gồm: Cấp, cấp đổi,
cấp lại chứng chỉ định giá đất tại
phụ lục số 1,2,3,4 kèm theo Thông
tư số 61/2015/TT-BTNMT ngày
15/12/2015 bãi bỏ các mục: Ngày,
tháng, năm sinh; quê quán; quốc
tịch; đồng thời, thay thế cụm từ “Số
CMND/CCCD” và “số CMND
(hoặc căn cước công dân hoặc hộ
chiếu)” bằng cụm từ “số định danh
cá nhân”. Bãi bỏ các mục “2.
Ngày, tháng, năm sinh”; “3. Quê
quán”; “Quốc tịch”. Thay thế cụm
từ “số CMND/CCCD” và “số
CMND (hoặc căn cước công dân
hoặc hộ chiếu)” bằng cụm từ “số
định danh cá nhân”.
Các nhóm thủ tục: Đăng ký
QSDĐ lần đầu; đăng ký và cấp
GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất lần
đầu; cấp GCN QSDĐ, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất cho người đã đăng ký
QSDĐ; đăng ký, cấp GCN QSDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất lần đầu đối
với tài sản gắn liền với đất mà sở
hữu không đồng thời là người sử
dụng đất; đăng ký đất đai lần đầu
đối với trường hợp được Nhà nước
giao đất để quản lý... tại mẫu số
4a/ĐK ban hành kèm theo Thông
tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày
19/5/2014 và tại mẫu số 4b/ĐK
Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT
thay thế cụm từ “số giấy CMND”
và “số CMND” bằng cụm từ “số
định danh cá nhân”.
Một số mẫu đơn, mẫu tờ khai
liên quan đến các nhóm thủ tục
khác có cụm từ “số giấy CMND”
và “số giấy CMND” cũng được
thay thế bằng cụm từ “số định
danh cá nhân”.
Lĩnh vực môi trường:Nhóm thủ
tục cấp giấy phép, điều chỉnh, cấp
lại vận chuyển hàng hóa nguy
hiểm là các chất độc hại, chất lây
nhiễm bằng phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ. Về mẫu
đơn, tờ khai: Tại phụ lục 3 ban
hành kèm theo Thông tư số
52/2013/TT-BTNMT quy định việc
vận chuyển hàng nguy hiểm là
chất độc hại, lây nhiễm. Bãi bỏ
cụm từ “Đơn vị cấp ngày cấp”;
thay thế cụm từ “số CMND” bằng
cụm từ “số định danh cá nhân”.
Lĩnh vực địa chất và khoáng
sản: Các thủ tục: Đấu giá quyền
khai thác khoáng sản ở khu vực
chưa thăm dò khoáng sản; đấu giá
quyền khai thác khoáng sản ở khu
vực đã có kết quả thăm dò khoáng
sản được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt. Mẫu đơn,
mẫu tờ khai: Tại mẫu số 02 ban
hành kèm theo Thông tư liên tịch
số 54/2014/TTLT-BTNMT-BTC
quy định chi tiết Nghị định số
22/2012/NĐ-CP quy định về đấu
giá quyền khai thác khoáng sản.
Mục 1 phần I: Điểm a: Bãi bỏ các
thông tin: “(ngày sinh, dân tộc,
quốc tịch)”; điểm b: Thay thế cụm
từ “số chững minh nhân dân”
bằng cụm từ “số định danh cá
nhân”. Mục (2) phần I điểm c: Bãi
bỏ các thông tin “(ngày sinh, dân
tộc, quốc tịch)”; thay thế cụm từ
“số CMND” bằng cụm từ “số định
danh cá nhân”.
Lĩnh vực môi trường: Về mẫu
tờ khai: Tại các mẫu số 01, 03, 05,
07 và 09, mục 1.2 ban hành kèm
theo Thông tư số 27/2014/TT-
BTNMT quy định việc đăng ký
khai thác nước dưới đất; mẫu hồ
sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại
giấy phép tài nguyên nước. Thay
thế cụm từ “số CMND, nơi cấp,
ngày cấp theo CMND “bằng cụm
từ “số định danh cá nhân”.
Lĩnh vực khác: Thủ tục cung
cấp, khai thác sử dụng thông tin,
dữ liệu đo đạc và bản đồ, tại điểm
a khoàn 5 Điều 10 Thông tư số
48/2015/TT-BTNMT: Thay thế
cụm từ “xuất trình CMND” bằng
cụm từ “xuất trình thẻ căn cước
công dân”. Về mẫu đơn, tờ khai:
Tại mẫu số 01 ban hành kèm
theo Thông tư số 48/TT-BTNMT:
Thay thế dòng số CMND bằng
dòng số “số định danh cá nhân”.
Nghị quyết của Chính phủ
giao Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp
với các bộ, ngành có liên quan xây
dựng trình cơ quan có thẩm quyền
ban hành Nghị định để sửa đổi, bổ
sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy
định có liên quan để thực thi nội
dung đơn giản hóa TTHC.n
Đơn giản hóa thủ tục hành chính
trong lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường
m ĐẶNG TRẦN HIẾU
Văn phòng Quốc hội
Vấn đề - Sự kiện
Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 1 - Th¸ng 9/20174
Sinh thời, Bác Hồ đặc biệtquan tâm đến công táccán bộ, trong đó khâu
đánh giá cán bộ là một việc làm
hệ trọng. Người cho rằng, việc
đánh giá cán bộ phải dựa trên
quan điểm toàn diện, tức là yêu
cầu phải xem xét đầy đủ các mối
liên hệ của sự vật, hiện tượng để
có đánh giá đúng. Khi xem xét
các mối liên hệ của cán bộ, cần
làm rõ bản chất của người cán bộ
thông qua ba mối quan hệ cơ bản:
Quan hệ với chính mình; quan hệ
với nhân dân; quan hệ với Đảng,
Nhà nước thông qua cơ quan,
đơn vị. Bác chỉ rõ: Cán bộ cần
phải việc gì cũng bàn bạc với
nhân dân, giải thích cho nhân
dân. Thế là phụ trách trước nhân
dân. Người cán bộ phải lấy quan
điểm của Đảng làm nền tảng cho
mọi hoạt động, vì Đảng ta là Đảng
của nhân dân, vì nhân dân mà
phục vụ.
Việc đánh giá cán bộ phải
được thực hiện một cách toàn
diện trước khi cất nhắc và phải
dựa vào tiêu chuẩn cán bộ, các
tiêu chí, yêu cầu của công việc
đó. Theo Bác, cán bộ được cất
nhắc phải hội đủ bốn tiêu chuẩn
cơ bản: Trung thành và hăng hái
trong công việc, trong lúc đấu
tranh; liên lạc mật thiết với quần
chúng, hiểu biết quần chúng; luôn
luôn chú ý đến lợi ích nhân dân;
luôn luôn giữ đúng kỷ luật. Xem
xét, đánh giá cán bộ phải linh
hoạt, không được bảo thủ, định
kiến vì bản thân cán bộ cũng thay
đổi suy nghĩ, cách làm việc do
nhiều mối quan hệ tác động chủ
quan lẫn khách quan, cùng chiều
hoặc ngược chiều. Người cho
rằng: Xem xét cán bộ, không chỉ
xem xét ngoài mặt mà còn phải
xem tính chất của họ. Không chỉ
xem một việc, một lúc mà phải
xem toàn cả lịch sử, toàn cả công
việc của họ. Đánh giá cán bộ là
một công việc khó. Công tác tổ
chức cán bộ đòi hỏi nhiều nội
dung, quy trình: Tổng hợp, đánh
giá, dự báo, bố trí công việc, đề
bạt, hạ cấp... Cần thấy được xu
hướng chuyển hóa của cán bộ để
“cải tạo, giúp đỡ” khi họ gặp khó
khăn, mắc sai lầm, khuyết điểm;
“chỉ đạo, nâng cao” khi cán bộ có
năng lực làm việc. Đánh giá cán
bộ đòi hỏi phải có thái độ tôn
trọng khách quan, phải xuất phát
từ bản thân của người cán bộ,
không được xuất phát từ ý chí
chủ quan của người xem xét.
Phải xem xét cán bộ trong cả quá
trình làm việc, thấy được thế
mạnh cũng như hạn chế của cán
bộ để phát huy mặt mạnh, đẩy lùi
mặt yếu.
Theo Bác, việc xem xét, đánh
giá cán bộ phải xuất phát từ thực
tiễn hoạt động của cán bộ. Nếu xa
rời thực tiễn, sẽ mắc phải bệnh
quan liêu trong xem xét, đánh giá.
Người cán bộ tốt phải là người mà
nói đi đôi với làm, không tham
vọng chức quyền, hăng hái, nhiệt
tình trong công việc, sẵn sàng
nhận nhiệm vụ mà không nề hà
khó khăn. Muốn đánh giá đúng
cán bộ, người làm công tác cán bộ
phải thực sự bám sát thực tiễn
hoạt động của cán bộ, theo dõi,
nhắc nhở, động viên kịp thời. Chỉ
có trong thực tiễn mới thử thách,
tôi luyện cho người cán bộ trở
thành những người có ích cho xã
hội, cho nhân dân.
Đảng ta nhận định: Việc đổi
mới công tác cán bộ chưa có đột
phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là
khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ
nhưng chưa có những tiêu chí cụ
thể và giải pháp khoa học để khắc
phục. Đồng thời, đề ra phương
hướng, nhiệm vụ đổi mới công tác
cán bộ, tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Vì vậy, phải nghiêm
túc nghiên cứu và thực hiện lời dạy
của Bác trong từng khâu đánh giá
cán bộ, nhất là: Tránh bệnh quan
liêu; bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi;
bệnh phiến diện, hình thức. Cần
nêu cao trách nhiệm người đứng
đầu; thực hiện đẩy mạnh đổi mới
chính sách cán bộ; rà soát, bổ
sung tiêu chuẩn cán bộ, bảo đảm
tính khách quan; chú trọng công
tác kiểm tra, giám sát; làm tốt
công tác thi đua, khen thưởng.
Người làm công tác cán bộ phải
đánh giá đúng cán bộ, có cơ chế
khen thưởng kịp thời để tạo cơ hội
cho người tài có điều kiện thuận lợi
cống hiến cho đất nước; tạo nguồn
cán bộ tốt cho Đảng và Nhà nước,
bồi dưỡng và huấn luyện đúng
người, đúng việc, phát huy được
tài năng của cán bộ.n
Bác Hồ với công tác đánh giá cán bộ
m PGS. TS. TRƯƠNG MINH TẠO
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
5Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 1 - Th¸ng 9/2017
Thiệt hại thiên tai do mưa
lớn, lũ quét, lũ ống gây ra
Những năm gần đây, trên địa
bàn tỉnh thường xuyên xảy ra lũ
ống, lũ quét, sạt lở gây thiệt hại
nghiêm trọng về người, tài sản và
sản xuất. Nhưng đáng chú ý là
các sự cố thiên tai gây thiệt hại về
người và tài sản chủ yếu tại
những địa bàn, điểm dân cư theo
lịch sử chưa gặp, không ngờ đến
hoặc ít xẩy ra lũ ống, lũ quét,
ngập úng; người dân thiếu chủ
động trong phòng ngừa, phòng
tránh và kinh nghiệm ứng phó, do
đó hậu quả thiệt hại nghiêm trọng
hơn. Loại hình thiên tai này phức
tạp, ác liệt, bất ngờ, bất thường,
bất kỳ thời gian và địa điểm, khó
dự báo, khó xác định và đúc kết
kinh nhiệm để phòng ngừa,
phòng tránh, đối phó, chế ngự;
thường xuyên xẩy ra hàng năm
trong mỗi mùa mưa bão ở tỉnh
Sơn La. Điển hình, trận mưa lớn
kéo dài trên diện rộng những
ngày cuối tháng 6/2017 đã khiến
một số địa phương trên địa bàn
tỉnh Sơn La xảy ra lũ quét, sạt lở
đất, ngập úng, gây thiệt hại về
người, tài sản, hoa màu, và một
số công trình hạ tầng. Ước tính
thiệt hại hàng chục tỷ đồng, mưa
to liên tiếp trong 2 ngày 10-11/7
trên địa bàn huyện Sốp Cộp đã
gây ra nhiều thiệt hại về nhà ở,
ảnh hưởng đến một số tuyến
đường giao thông, thiệt hại trên
1,3 tỷ đồng. Trận mưa lớn kéo dài
đêm ngày 2/8 đến rạng sáng
ngày 3/8, trên địa bàn huyện
Mường La, Sơn La gây ra lũ ống,
lũ quét làm thiệt hại lớn về người,
tài sản. Tính đến ngày 4/8, mưa
lũ đã làm 6 người bị chết, 10
người mất tích, 3 người bị thương,
258 ngôi nhà bị cuốn trôi, đổ sập
và hư hỏng nặng. Ước tính ban
đầu, thiệt hại do lũ gây ra trên địa
bàn huyện Mường La là 375 tỷ
đồng. Sau khi mưa lũ xảy ra,
huyện Mường La đã chỉ đạo ngay
công tác ứng phó và khắc phục
hậu quả thiên tai. Huyện bố trí
cho 75 hộ có nhà bị cuối trôi hoàn
toàn và khu vư