Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt, có rất
nhiều đại từ dùng cho ba ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ
ba, trong khi hầu hết các ngôn ngữ khác, đại từ nhân
xưng rất đơn giản, như tiếng Anh chẳng hạn, chỉ có I và
You, ngôi thứ ba He, She và It, cùng số nhiều của ba ngôi
đó.
13 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tập tục: Tao và mày, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập tục: Tao và mày
Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt, có rất
nhiều đại từ dùng cho ba ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ
ba, trong khi hầu hết các ngôn ngữ khác, đại từ nhân
xưng rất đơn giản, như tiếng Anh chẳng hạn, chỉ có I và
You, ngôi thứ ba He, She và It, cùng số nhiều của ba ngôi
đó.
1. Chúng ta có thể kê ra hàng loạt đại từ nhân xưng trong
tiếng Việt như : Tôi, ta, tao, tớ, mày, anh, em, chị, cô, chú,
bác, ông, cụ, nóNghĩa là ngoài một số đại từ cơ bản như tôi
và anh, mày và tao, thì có vô số đại từ vốn chỉ thứ bậc và
quan hệ huyết thống trong gia đình được đưa tuốt ra ngoài xã
hội.
Một số đại từ lại được nói trong cả hai ngôi, vì dụ ta có thể
xưng chị, đưa cho chị cái này (ngôi thứ nhất) rồi lại gọi một
cô gái khác là chị ơi, chị đi đâu đấy (ngôi thứ hai). Việc xưng
hô như vậy làm cho tiếng Việt trở nên phong phú, nhưng
cũng phức tạp và phiền hà không kém, trở thành một ngôn
ngữ mang nhiều mầu sắc lễ nghĩa tôn ti.
Nhưng tiếng Hán của người Hán vốn là một dân tộc sinh ra
Nho giáo với nhiều nghi lễ phiền toái, lại chỉ có ba ngôi xưng
hô thông dụng : Ủa, Nỉ và Tha (1,2,3 ).
Kỹ thuật của người An Nam - Tranh khắc của Henri Oger
Tất nhiên trong chốn quan trường, công sở, thi lễ thì tiếng
Hán được dùng để xưng hô cũng phức tạp bậc nhất, người ta
phải tùy từng địa vị, quan hệ, hoàn cảnh mà ăn nói cho đúng
phép – một thứ kính ngữ sâu sắc và lôi thôi chưa từng có. Khi
hai kẻ sỹ gặp nhau, họ nói là Thưa túc hạ (tôi chỉ dám nói với
cái chân của ngài), gặp quan trên, bề trên thì Thưa các hạ (tôi
chỉ dám nói với cái gác của ngài), gặp hoàng tử, thái tử thì
nói Thưa Điện hạ (tôi chỉ dám nói với cung điện của ngài),
yết kiến vua thì thưa Tâu Bệ hạ (tôi chỉ dám nói với cái bệ
của nhà vua). Rồi gọi nhau là Đại nhân, Tiên sinh, Thượng
quan, Tướng công, Đại phu, Tráng sỹ, Hiền sỹ, Tướng
quân tức là những chức tước cũng được dùng thành ngôi
thứ hai ba để kính ái nhau. Ngược lại kẻ làm vua lại xưng
khiêm tốn, ví dụ xưng Cô (kẻ cô đơn này), Quả nhân (kẻ cô
độc này), trẫm (kẻ ngu tối này) kèm theo lối ăn nói văn
hoa, khen ngợi, xưng tụng, tâng bốc.
Ví dụ: Nghe danh ngài như sấm dậy bên tai đã lâu, nay gặp
mặt mới thỏa lòng mong ước/ Tôi gặp ngài khác nào quạ
dám sánh với phượng hoàng, ngựa hèn sánh với kỳ lân/ Đức
độ của ngài lan ra bốn bể, khắp hang cùng ngõ hẻm, ai ai
cũng nghển cổ trông ngóng/ Lời của ngài chúng tôi đã phải
rửa tai chín lần để chờ đợi
Mặc dù kính ngữ phức tạp như vậy, nhưng trong khi nói
chuyện, người ta chỉ cần thưa tôn kính lần đầu, còn những
câu nói sau có thể quay lại Nhĩ – Ngã như bình thường.
Giống như ta nói tiếng Anh: Thưa Tiến sỹ, anh có khỏe
không? Điều này là hoàn toàn khác với tiếng Việt, người ta
căn bản không thay đổi đại từ nhân xưng trong suốt cuộc nói
chuyện, hoặc là phải dùng đại từ tương đương với tuổi tác
của người đang nói.
2. Nghe những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi
tao, mày duy nhất cũng được dùng phổ biến, điều này cũng
thấy cách đây ba bốn mươi năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ
vào trong. Tất nhiên chênh lệch tuổi tác và có quan hệ họ
hàng các ngôi vẫn phức tạp, nhưng quan hệ bình thường, việc
dùng tao, mày và nói là mi với tau là rất phổ biến.
Cha mẹ nói với con cái, anh em gần tuổi nói với nhau, đàn
ông đàn bà cùng trang lứa tất cả phổ biến là mi và tau. Đó
là ngữ âm cổ của người Việt, thấy khắp từ Thanh Hóa đến
các xứ Quảng. Tôi nghi ngờ rằng vào một thời xưa nào đó
người Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản
tao và mày, rồi vì một lý do nào đó, thời nào đó, cách thức
xưng hô thay đổi theo chiều hướng gia đình hóa cho tới hiện
nay.
Đi chợ thời xưa - Tranh khắc Henri Oger
3. Trong một văn bản tại hội nghị giải quyết những bất đồng
liên quan đến thuật ngữ Ki tô giáo bằng tiếng Việt, do Quyền
Giám sát dòng Tên hai vùng Trung Nhật triệu tập tại Macao
năm 1645, hội nghị có đưa ra mô thức rửa tội bằng tiếng Việt
có câu như sau: Tau rữa mâi nhân danh Cha uà Con, uà
spirito santo - Tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và
spirito santo (Tham khảo từ cuốn Dinh trấn Thanh Chiêm
Quảng Nam, Đinh Trọng Tuyến và Đinh Bá Truyền biên
soạn). Trong hội nghị này có 35 giáo sỹ, 31 phiếu thuận, 2
phiếu trắng và 2 phản đối trong đó có Alexandre de Rhodes,
nhưng nghị quyết vẫn được thông qua. Ở đây ta thấy việc
xưng hộ giữa cha xứ và con chiên được nói bằng hai
ngôi tau (tao) và mâi (mi, mày). Nếu ngày nay một đức cha
mà xưng mày, tao với con chiên trong nhà thờ thì quả không
ổn, nhưng điều đó cho thấy có thời việc xưng hô hai ngôi đơn
giản là rất phổ biến ở Đàng Trong, nhất là xứ Quảng Nam,
nơi cha Francissco de Pina (? – 1625) được coi là người đầu
tiên dùng chữ Latinh phiên âm tiếng Việt.
Ngày xưa khi bạn đến một vùng xa lạ, người ta sẽ hỏi
rằng: Mày là kẻ nào? Nhưng bây giờ mà nói thế chắc là
đánh nhau.
4. Trong bản in khắc gỗ ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc
Ninh) mang tên “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục”,
năm 1752, được khắc bằng chữ Nôm và chữ Hán song song,
có những câu sau:
- Bây chừ mày trong phép tao, tuồng có duyên xưa (Kim nhữ
ngô pháp trung, cái hữu túc duyên): Ngươi đã được theo học
phép thuật của ta, dường như là có duyên từ trước.
- Ngày hôm nay nghe, hợp bằng lòng mày thửa nguyện (Kim
nhật thính độ, như nhữ sở nguyện): Hôm nay được nghe
Kinh, như ngươi thường mong ước.
- Thầy rằng mày đã nên phép nhà tao (Viết nhữ thành ngô
pháp quyến): Thầy nói rằng ngươi đã học được phép thuật
của ta.
- Tao đáp (giúp) nhà mày một áng sức vậy (Ngã trợ nhữ gia
nhất trường khí lực hỹ): Ta giúp nhà ngươi một sức vậy.
- Tao cùng mày chưng ấy lặng, chẳng hay sao lỗi ắt lại (Ngô
dữ nhữ thử mẫn, bất tri hà cữu tất lai): Ta với nhà ngươi
không có chuyện gì, chẳng hay lỗi ấy từ đâu ra.
(Tham khảo từ cuốn “Di văn chùa Dâu” – NXB KHXH,
1997)
Văn bản này được coi là in khắc lại của một văn bản từ thế
kỷ 15, bởi toàn bộ những gì thuộc về Trung Quốc đều gọi là
nước Minh. Nội dung đối thoại là giữa sư Khâu đà la và cô
đệ tử Man Nương, sau này Khâu đà la vô tình bước qua Man
nương khi cô ngủ ngoài bậc cửa, nên cô động mình mà có
thai. Câu cuối cùng nói rằng giữa nhà sư và cô gái không có
một chuyện gì, mà sao lỗi ấy từ đâu ra.
Theo truyền thuyết thì sư Khâu đà la sau đó nhận đứa bé mà
Man nương sinh ra, đem vào rừng bỏ vào cây thần dung thụ
(cây dâu). Sau một trận lụt cây dâu đổ xuống, người ta cưa
cây thành bốn khúc gỗ, tạc bốn pho tượng Mây – Mưa - Sấm
- Chớp rất thiêng, nay thờ ở cụm chùa Tứ Pháp, Thuận
Thành, Bắc Ninh.
Điểm quan trọng nhất là cho đến năm 1752, ở Đàng Ngoài,
việc xưng hô giữa thầy chùa và phật tử cũng là “mày” và
“tao”. Tôi cũng nghĩ là việc phiên âm chữ Nôm ở đây hơi
mới, lúc đó phát âm cũng tương tự như “tau” và “mâi” thôi,
riêng người Kẻ Chợ (Thăng Long) có thể đã nói “tao” và
“mày”.
5. Nếu đúng là trước thế kỷ 18, như văn bản chùa Dâu, người
Việt vẫn xưng hô “tao” và “mày”, thì nguyên do từ đâu mà
người Việt dùng những đại từ nhân xưng trong quan hệ gia
đình đem ra xã hội?
Có thể sự thay đổi giữa nhân xưng đơn giản chuyển sang
phức tạp không đồng loạt ở các địa phương và thời điểm.
Người ta cho rằng, sau những cuộc chiến tranh ác liệt thời
Trần và thời Lê với quân Nguyên Mông và quân Minh, người
Việt phải đi sơ tán lung tung trong toàn quốc, người sơ tán và
người địa phương phải coi nhau như người nhà, nên gọi nhau
là anh em, chú bác, đồng bào (người cùng ruột).
Tiếp sau đó, nhà Lê sơ bắt đầu coi trọng Nho giáo, lấy lễ
nghĩa cương thường làm rường mối xã hội, quan hệ xã hội
trở nên phức tạp dần và nhiều nghi lễ, tập tục, kết quả là một
cách xưng hô mới trong tiếng Việt dần hình thành cộng với
sự gia tăng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc bởi những
người Hoa di cư sau năm 1644, khi nhà Minh thất bại trước
quân Mãn Thanh.
Ngôn ngữ là hiện tượng rộng rãi trong cộng đồng dân tộc, nó
thay đổi, bổ sung và mất đi liên tục theo các trào lưu xã hội
hằng ngày. Trước kia khi muốn đơn giản nhiều người Việt
đành dùng lối xưng hô theo tiếng Pháp, ngày nay theo tiếng
Anh, với ba ngôi duy nhất, và khi tất cả đều là “you” với “i”
thì bày tỏ tình cảm phi tuổi tác hay thẳng thắn chỉ trích nhau
cũng dễ dàng hơn.
Ngày xưa khi bạn đến một vùng xa lạ, người ta sẽ hỏi rằng:
Mày là kẻ nào? Chữ “kẻ” ở đây có nghĩa là địa phương, vùng
đất, nên câu hỏi có nghĩa là: Anh từ đâu đến, giống hệt
như Where are you from? Nhưng bây giờ mà nói thế chắc là
đánh nhau.