Tóm tắt
Nghiên cứu này trình bày phương pháp thấm cacbon bề mặt chi tiết từ thép cacbon thấp CT3 sử dụng hồ
quang plasma và lớp phủ graphite. Lớp phủ graphite gồm thành phần chính là bột graphite và thủy tinh
lỏng. Kết quả thí nghiệm cho thấy sự thay đổi cấu trúc tế vi và độ cứng theo chiều sâu lớp thấm cacbon.
Độ cứng bề mặt chi tiết sau khi thấm cacbon đạt 810 HV0.2, chiều sâu lớp thấm đạt 200 μm (chế độ
micro-melting), và có thể đạt tới 3 mm (macro-melting). Ưu điểm của phương pháp thấm cacbon này là
bề mặt chi tiết không bị nóng chảy hoàn toàn, độ nhám bề mặt Ra = 2-5 μm ở chế độ micro-melting và
thời gian thấm cacbon chỉ diễn ra trong vài giây
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 525 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thấm cacbon và phủ graphite phủ bằng hồ quang plasma, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
39Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Người phản biện: 1. PGS.TS. Lê Thu Quý
2. TS. Ngô Hữu Mạnh
Thấm cacbon và phủ graphite phủ bằng hồ quang plasma
Carburizing and graphite coating by plasma spraying
Vũ Vĕn Huy1, Trịnh Vĕn Cường2, Nguyễn Thị Liễu2, Mạc Thị Nguyên2, Mạc Vĕn Giang2
Email: huy241989@gmail.com
1 Trung tâm nhiệt đới Việt - Nga
2 Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 14/4/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/6/2020
Ngày chấp nhận đĕng: 30/6/2020
Tóm tắt
Nghiên cứu này trình bày phương pháp thấm cacbon bề mặt chi tiết từ thép cacbon thấp CT3 sử dụng hồ
quang plasma và lớp phủ graphite. Lớp phủ graphite gồm thành phần chính là bột graphite và thủy tinh
lỏng. Kết quả thí nghiệm cho thấy sự thay đổi cấu trúc tế vi và độ cứng theo chiều sâu lớp thấm cacbon.
Độ cứng bề mặt chi tiết sau khi thấm cacbon đạt 810 HV0.2, chiều sâu lớp thấm đạt 200 μm (chế độ
micro-melting), và có thể đạt tới 3 mm (macro-melting). Ưu điểm của phương pháp thấm cacbon này là
bề mặt chi tiết không bị nóng chảy hoàn toàn, độ nhám bề mặt Ra = 2-5 μm ở chế độ micro-melting và
thời gian thấm cacbon chỉ diễn ra trong vài giây.
Từ khóa: Thấm cacbon bằng plasma; thép cacbon thấp; vùng nóng; độ cứng tế vi; thủy tinh lỏng.
Abstract
This paper is presented for carburizing the surface of CT3 low-cacbon steel using plasma arc and
graphite coating. Graphite coating consists mainly of graphite powder and water glass. Experimental
results indicate the change in the microstructure and the microhardness in the carburizing layer after the
plasma treatment. The surface microhardness increased up to 810 HV0.2. The cemented layer depth was
about 200 μm (micro-melting mode) and 3 mm (macro-melting mode).There are some advantages of this
carburizing method: there is not a full melting on the surface; low surface roughness Ra = 2-5 μm in micro-
melting mode and a short carburizing duration of only about a few seconds.
Keywords: Plasma carburizing; low cacbon steel; heat spot; microhardness; sodium silicate.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các phương pháp tĕng độ cứng cho bề mặt
chi tiết, thấm cacbon là phương pháp được sử dụng
rộng rãi, hiệu quả và có tính ứng dụng cao [1-2].
Thấm cacbon được biết đến và sử dụng từ thế kỉ
XVII, đến nay công nghệ thấm cacbon ngày càng
hoàn thiện [2-3]. Trong các phương pháp thấm
cacbon thì phương pháp dùng các nguồn nhiệt
có mật độ nĕng lượng cao (laser, plasma, chùm
electron) và lớp phủ graphite là phương pháp đơn
giản và hiệu quả, cho phép rút ngắn thời gian thấm
cacbon đến vài giây [3-6].
Quá trình khuếch tán nguyên tử cacbon vào bề
mặt chi tiết vật liệu thép xảy ra theo hai phương
thức: 1 - trong trạng thái rắn của vật liệu (trạng thái
austenite), 2 - trong trạng thái lỏng của vật liệu [7].
Hầu hết các quá trình thấm cacbon đến thời điểm
hiện tại được thực hiện theo phương thức 1, tức là
trong trạng thái austenite của vật liệu. Nhưng quá
trình khuếch tán cacbon theo phương pháp này bị
giới hạn bởi hằng số khuếch tán của cacbon trong
mạng lưới tinh thể austenite (K
c
= 1,10-6 cm2/s [2],
vì thế quá trình thấm cacbon diễn ra trong thời gian
dài, dẫn đến những hạn chế nhất định (hiệu suất
thấp, biến dạng chi tiết do nhiệt). Thấm cacbon
dùng nguồn nhiệt có mật độ nĕng lượng cao và lớp
phủ graphite được thực hiện theo nguyên lý 2, tức
là trong trạng thái lỏng của bề mặt vật liệu. Hằng số
khuếch tán cacbon trong trạng thái lỏng lớn hơn rất
nhiều (K
c
= 7,9.10-5 cm2/s [8]) so với trạng thái rắn,
điều đó cho phép rút ngắn thời gian quá trình thấm
cacbon. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này
là bề mặt chi tiết sau khi thấm cacbon biến dạng, độ
nhám bề mặt tĕng cao, đòi hỏi quá trình gia công
cơ khí sau khi thấm cacbon.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
40 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Sử dụng nguồn nhiệt mật độ nĕng lượng cao
(laser, plasma, chùm electron) và lớp phủ graphite
để thấm cacbon được thực hiện trong các nghiên
cứu [3,7, 9-11]. Đặc điểm của các nghiên cứu này
là lớp phủ graphite chỉ cần đảm bảo độ bám dính
nhất định, độ dẫn điện của lớp phủ graphite không
ảnh hưởng đến hoạt động của nguồn nhiệt (laser,
plasma, chùm electron) và quá trình thấm cacbon.
Tuy nhiên, việc sử dụng hồ quang plasma (hồ
quang plasma tạo ra bằng dòng điện một chiều hay
xoay chiều, trong đó dòng điện chạy giữa điện cực
hay plasmatron, dòng plasma và bề mặt chi tiết)
trong vai trò nguồn nhiệt trong trường hợp này là
không khả thi, vì lớp phủ graphite dùng trong những
nghiên cứu này không cho phép hồ quang plasma
hoạt động ổn định. Về cơ bản lớp phủ graphite
được cấu tạo từ những thành phần: vật liệu chứa
cacbon (các loại than), chất hoạt hoá (NH4Cl, HCl, BaCO3), và chất kết dính (các loại keo hữu cơ và vô cơ). Trong các nghiên cứu kể trên, sử dụng
hydrolysed ethylsilicate, lacquer, carboxymethyl
cellulose và cả rượu etanol trong vai trò chất kết
dính hay tạo môi trường dung dịch. Về cơ bản các
loại vật liệu chứa cacbon dẫn điện tốt, nhưng khi
kết hợp với các chất kết dính hay các chất hoạt
hóa, tạo thành dung dịch dẫn điện kém hơn, ngoài
ra dưới tác dụng nhiệt độ các chất kết dính này
cháy tạo thành các sản phẩm khác nhau ngĕn cản
hoạt động của hồ quang plasma. Vì vậy, hiện nay
việc sử dụng plasma hồ quang và lớp phủ để thấm
cacbon bề mặt chi tiết ít được nghiên cứu.
Việc giảm đáng kể thời gian thấm cacbon cho
phép tĕng nĕng suất quá trình thấm cacbon. Ngoài
ra việc thấm cacbon bằng hồ quang plasma cho
phép thấm cacbon từng vùng riêng biệt, không phụ
thuộc vào kích thước chi tiết cần thấm và không
gây ra biến dạng nhiệt như các phương pháp thấm
cacbon truyền thống [1]. Trong nghiên cứu này sẽ
trình bày về khả nĕng sử dụng nguồn nhiệt có mật
độ nĕng lượng cao (hồ quang plasma) và lớp phủ
graphite để thấm cacbon bề mặt chi tiết từ thép
cacbon thấp.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Mục đích
Nghiên cứu quá trình dùng hồ quang plasma và lớp
phủ graphite để thấm cacbon, tĕng độ cứng cho bề
mặt chi tiết.
2.2. Vật liệu mẫu thí nghiệm và thiết bị đo
Vật liệu mẫu thí nghiệm: Vật mẫu để thấm cacbon
có kích thước 80×40×10 mm từ thép CT3 (Cт3сп -
theo tiêu chuẩn Nga ГОСТ 380-2005).
Thiết bị đo: Độ nhám bề mặt được xác định trên
máy đo độ nhám FormTalySurfi200; Để nghiên cứu
tổ chức tế vi của kim loại cần tiến hành phân tích
kim tương, rồi sử dụng kính hiển vi MICROMED
MET 2, cho phép quan sát trực tiếp và chụp ảnh tổ
chức tế vi của kim loại (mức phóng to từ 100 đến
1000 lần); Để xác định độ cứng tế vi sử dụng máy
đo độ cứng tế vi PMT-3.
Bảng 1. Thành phần hóa học thép CT3
Mác
thép
Khối lượng các nguyên tố, %
С Si Mn S P
CT3
0,14-
0,22
0,15-
0,3
0,4-
0,65
<0,05 <0,04
Trên hình 1 thể hiện cấu trúc tế vi thép CT3 sau
khi ủ.
Cấu trúc: Ferrit (màu sáng) và perlit (màu tối do sự
có mặt của các tấm cementit ngĕn cản sự phản xạ
ánh sáng, vì vậy dưới kính hiển vi quang học cho
màu tối). Độ cứng dao động 150-200 HV 0.2.
Hình 1. Cấu trúc tế vi thép CT3
a. Graphite
Hình 2. Bột graphite qua phân tích ảnh SEM
а - bột graphite ; b - cấu trúc lớp của bột graphite
а)
b)
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
41Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Dùng bột graphite từ điện cực graphite. Điện cực
graphite gk-1 (ГК-1 - hàm lượng cacbon 99%) theo
tiêu chuẩn Nga ГОСТ 4404-78 được mài thành
dạng bột, sau đó lọc qua màng (kích thước lỗ màng
0,04 mm). Sau đó bột graphite được trộn với rượu
etanol 95o, dung dịch nhận được cho vào bồn sóng
siêu âm để loại bỏ tạp chất. Dung dịch sau khi xử
lý bằng sóng siêu âm được sấy khô để làm bay hơi
rượu, nhận được bột graphite với độ mịn cao (kích
thước hạt < 0,04 mm). Hình 2 trình bày cấu trúc bột
graphite.
Sơ đồ tiến hành thấm cacbon được trình bày trên
hình 3.
Hình 3. Sơ đồ thấm cacbon bằng hồ quang plasma
1 - nguồn điện; 2 - bình argon; 3 - bộ phận đo dao
động, U và I; 4 - bộ điều khiển; 5 - động cơ điện
1 chiều; 6 - chi tiết với lớp phủ graphite; 7 - mỏ hàn;
8 - máy ảnh; 9 - nhiệt kế hồng ngoại
b. Lựa chọn thành phần lớp phủ graphite
Như chúng ta đã biết, trong quá trình gia công bề
mặt sử dụng hồ quang plasma, dòng điện chạy
giữa điện cực và bề mặt chi tiết, vì vậy cần đảm
bảo tốt độ dẫn điện của bề mặt chi tiết sau khi phủ
bột graphite và độ bám dính của lớp graphite với
bề mặt chi tiết.
Lớp phủ graphite được cấu tạo từ bột graphite, thủy
tinh lỏng, dung dịch làm mát và nước cho phép tạo
được lớp phủ graphite dẫn điện tốt, có độ bám dính
cao. Hình 4 trình bày sự thay đổi của điện thế và
cường độ dòng diện giữa 2 đầu hồ quang plasma
khi sử dụng các lớp phủ graphite khác nhau. Thông
số quá trình kiểm tra độ ổn định của dòng plasma:
I = 23-25 A, U = 120 V, V = 5 m/s.
- Kênh 1: Diễn tả sự thay đổi của hiệu điện thế trong
quá trình thấm cacbon bằng hồ quang plasma.
- Kênh 2: Diễn tả sự thay đổi của cường độ
dòng điện.
Hình 4. Đồ thị U, V của quá trìnhtrình phủ
а - không có lớp phủ graphite; b - lớp phủ graphite
từ bột graphite, thủy tinh lỏng và dung dịch emulxi;
c - lớp phủ graphite từ bột graphite và sơn cách nhiệt;
d - lớp phủ graphite từ bột graphite trên nền keo dẫn
điện (9703 ЗМ USA 25,4мм)
Trên hình 4a, b, trừ giai đoạn mở đầu (kích thích
quá trình tạo hồ quang plasma) và kết thúc, cường
độ dòng điện và hiệu điện thế ổn định.
Trên hình 4c, d, cường độ dòng điện và hiệu điện
thế thay đổi với biên độ lớn, quá trình tạo hồ quang
plasma và tắt hồ quang plasma xảy ra liên tục. Hồ
quang plasma hoạt động không ổn định.
1 2
3
4
5
7
8
6
9
a)
b)
c)
d)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
42 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Thủy tinh lỏng ngậm nước có công thức tổng
quát là Na2O.m SiO2.n H2O. Dưới tác dụng của dòng plasma thủy tinh lỏng phân rã, tạo các oxit
và hơi nước (1), sau đó các oxit này một phần
nóng chảy, bay hơi, phân rã tạo thành Na, Si, H, O
(2-4). Một phần phản ứng với cacbon tạo thành
kim loại (5-6). Ngoài ra, xảy ra phản ứng tạo CO
và cementite (7-8). (Trong trường hợp này có khả
nĕng xảy ra các phản ứng khác nhưng không ảnh
hưởng đến quá trình thấm cacbon và khuếch tán
cacbon). Như vậy, việc tạo Na2O, Na ở nhiệt độ cao trên nền bột graghite là nguyên nhân dẫn đến việc
bảo toàn tính dẫn điện của lớp phủ cacbon và hoạt
động bình thường của hồ quang plasma.
Na2O.mSiO2.nH2O = Na2O + mSiO2 + nH2O (1)
H2O = 2H + O (2)
SiO2 = Si + 2O (3)
Na2O = 2Na + O (4)
SiO2 + С = Si + CO2 (5)
Na2O + 2С = 2Na + 2CO (6)
H2O + С = H2 + CO (7)
3Fe + С = Fe3С (8)
Như vậy, việc sử dụng thủy tinh lỏng trong vai trò
chất kết dính trong trường hợp này đảm bảo được
sự hoạt động ổn định của dòng plasma.
Độ bám dính của lớp phủ được kiểm tra theo ГОСТ
9.302-88. Độ bám dính của lớp phủ có thể được
kiểm soát bằng phương pháp rơi tự do. Lớp phủ
không bị phá hủy khi mẫu rơi tự do trên một tấm
thép đặc từ chiều cao 20 mm. Lượng lớp phủ bị
tách ra không vượt quá 5%. Thực nghiệm cho thấy
với lớp phủ chứa 33% graphite và 65% thủy tinh
lỏng, lượng lớp phủ bị tách ra không vượt quá 2%.
Như vậy, sử dụng lớp phủ được cấu tạo từ graphite,
thủy tinh lỏng,.. đảm bảo được độ dẫn điện và độ
bám dính cần thiết cho quá trình gia công.
c. Quy trình chuẩn bị lớp phủ cacbon
- Chuẩn bị bột graphite (kích thước hạt < 0,04 mm).
- Tạo dung dịch graphite (bột graphite, thủy tinh
lỏng, nước, dung dịch emulxi).
Thủy tinh lỏng được dùng với vai trò chất kết dính,
nước dùng để tạo trạng thái dung dịch, emulxi hỗ
trợ quá tạo dung dịch (giảm sức cĕng bề mặt, bột
graphite dễ hòa tan vào dung dịch hơn).
- Phủ lên bề mặt chi tiết.
- Sấy khô để đảm bảo cho lớp phủ graphite đều,
dùng các tấm nhựa có độ dày nhất định. Quy trình
phủ lớp graphite trình bày ở hình 5.
Khối lượng bột graphite trên 1 một đơn vị diện tích
β (g/m2) được tính theo công thức (9):𝛽𝛽 = 𝑚𝑚𝑠𝑠 (9)
Trong đó:
m: khối lượng bột graphite (g);
s: diện tích phủ (m2).
Thí nghiệm này dùng lớp phủ cấu tạo từ 33%
graphite, phần còn lại là thủy tinh lỏng (emulxi
khối lượng không đáng kể). Khối lượng phủ
β = 100-200 g/m2.
Hình 5. Sơ đồ phủ lớp graphite
a - mẫu; b - mẫu với mặt nạ; c - sau khi phủ graphite;
d - sau khi làm bằng; e - sau khi gỡ bỏ mặt nạ
d. Thông số kỹ thuật
Các thông số công nghệ cơ bản khi thấm cacbon:
Cường độ dòng điện (I), hiệu điện thế (U), lượng
tiêu hao argon trong một đơn vị thời gian (P), tốc độ
di chuyển mẫu (V), kích cỡ điện cực, khoảng cách
giữa điện cực và bề mặt chi tiết. Như chúng ta đã
biết, trong quá trình gia công chi tiết máy bằng hồ
quang plasma (tôi bề mặt) những giá trị kể trên ảnh
hưởng đến lượng nhiệt chuyển đến bề mặt chi tiết
trong một đơn vị thời gian và diện tích vùng nóng.
Khái niệm vùng nóng (heat spot) được sử dụng đầu
tiên trong hàn hồ quang từ những nĕm 30 của thế
kỉ trước [12]. Trong gia công bề mặt chi tiết bằng
nguồn nhiệt có mật độ nĕng lượng cao, vùng nóng
là khu vực bề mặt của chi tiết mà nĕng lượng nguồn
nhiệt đưa vào chi tiết qua đó [13]. Như vậy, khi gia
công bằng nguồn nhiệt có mật độ nĕng lượng cao,
diện tích vùng nóng càng nhỏ, mật độ nĕng lượng
càng cao, vận tốc nung nóng và làm lạnh càng cao
và ngược lại. Điều đó ảnh hưởng đến cấu trúc tế
vi cũng như trạng thái của lớp bề mặt sau khi gia
công, vì vậy xác định diện tích vùng nóng đóng vai
trò hết sức quan trọng trong gia công bề mặt chi
tiết bằng các nguồn nhiệt có mật độ nĕng lượng
cao. Trong nghiên cứu [14], chúng tôi có trình bày
phương pháp xác định vùng nóng trong quá trình
gia công bề mặt chi tiết bằng dòng plasma. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng, khoảng cách giữa điện cực
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
43Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
và bề mặt chi tiết ảnh hưởng lớn đến vùng nóng:
khi tĕng khoảng cách từ 3 lên 5 mm, đường kính
vùng nóng tĕng đến 1,5 lần. Ngoài ra, tĕng công
suất của hồ quang plasma (tĕng cường độ dòng
điện) cũng dẫn đến việc tĕng bán kính vùng nóng.
Vì vậy, để đánh giá một cách tổng quát nhất ảnh
hưởng của các thông số kỹ thuật (cường độ dòng
điện, hiệu điện thế, vận tốc, khoảng cách giữa điện
cực và bề mặt chi tiết) đến kết quả của quá trình
gia công, sử dụng khái niệm: mật độ nĕng lượng F
(J/mm2), F được tính theo công thức (10).𝐹𝐹 = 𝑈𝑈 ∙ 𝐼𝐼 ∙ 𝜂𝜂 ∙ 𝑡𝑡𝑆𝑆 ∙ 2𝑟𝑟 = 𝑈𝑈 ∙ 𝐼𝐼 ∙ 𝜂𝜂𝑣𝑣 ∙ 2𝑟𝑟 (10)
Trong đó:
U: hiệu điện thế, V;
I: cường độ dòng điện, A;
h: hiệu suất;
t: thời gian, s;
V: vận tốc, mm/s;
r = f(h, U, I, h): bán kính vùng nóng, mm;
h: khoảng cách từ điện cực đến mẫu, mm;
S: chiều dài đường gia công, mm.
Mật độ nĕng lượng tĕng khi tĕng công suất dòng
plasma, hay giảm vận tốc chuyển động của chi
tiết hay kích thước vùng nóng và ngược lại. Mật
độ nĕng lượng càng cao, lượng nhiệt mà 1 đơn vị
diện tích bề mặt trong 1 đơn 1 thời gian nhận được
càng nhiều.
Thông số kỹ thuật sử dụng:
Cường độ dòng điện I = 90-120 A, hiệu điện thế
U = 20-26 V, khoảng cách từ điện cực đến mẫu
h = 5 mm, lớp phủ 33% graphite, 65% thủy tinh
lỏng, còn lại emulxi, lượng bột graphite trên 1 một
đơn vị diện tích b = 110 g/m2, lượng tiêu thụ argon
7 lít/phút. Với thông số kỹ thuật trên, mật độ nĕng
lượng thay đổi từ 30 - 80 J/mm2.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Bề mặt mẫu sau khi tác dụng bằng dòng plasma
(plasma arc) trình bày trên hình 6.
Hình 6. Bề mặt chi tiết sau khi phủ bằng plasma
а - không có lớp phủ graphite; b - lớp phủ graphite
từ bột graphite, thủy tinh lỏng và dung dịch emulxi;
c - lớp phủ graphite từ bột graphite và sơn cách nhiệt;
d - lớp phủ graphite từ bột graphite trên nền keo dẫn
điện (9703 ЗМ USA 25,4мм)
Sau khi thấm cacbon, tùy theo mật độ nĕng lượng
dòng plasma và lượng lớp phủ trên bề mặt xuất
hiện hai trạng thái của bề mặt mẫu thử từ thép.
Chảy vi mô (hình 7): Bề mặt mẫu không bị nóng
chảy hoàn toàn, vùng thấm cacbon chuyển sang
màu trắng bạc. Xuất hiện các vùng lõm kích thước
nhỏ. Độ nhám bề mặt (Ra) tĕng từ 0,7 - 0,8 µm (sau
khi tiện để loại bỏ lớp oxyt trên bề mặt kim loại) đến
2-5 µm.
Hình 7. Bề mặt vùng gia công
a - bề mặt mẫu, b - cấu trúc 3D
Lớp thấm cacbon sau khi tẩm thực có màu sáng,
với độ cứng đạt đến 1100 HV0.2 (hình 8). Chiều
sâu lớp thấm cacbon đạt tối đa ở vùng trung tâm,
а)
b)
c)
d)
а)
b)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
44 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
giảm dần về 2 cạnh. Điều đó tương ứng với việc
phân bố nĕng lượng trong vùng nóng của dòng
plasma (theo định luật Gauss) [3,12-14]. Ở trạng
thái micro-melting, chiều sâu tối đa lớp thấm
cacbon đạt 180 - 200 µm. Có thể phân biệt 2 vùng
khác nhau của lớp thấm các bon:
Lớp 1 - ở ngoài, khuếch tán cacbon thực hiện
trong trạng thái lỏng của bề mặt vật liệu, hàm
lượng cacbon vùng này cao.
Lớp 2 - ở trong, khuếch tán cacbon thực hiện trong
trạng thái rắn của vật liệu, hàm lượng cacbon vùng
này thấp hơn. Dưới lớp thấm cacbon là vùng ảnh
hưởng nhiệt (sẫm màu hơn). Độ cứng vùng này
dao động từ 400-500 HV0.2 do hàm lượng cacbon
trong vùng này thấp 0,2%, dẫn đến việc tạo thành
cấu trúc martensite với hàm lượng cacbon thấp, độ
liên kết của mạng tinh thể martensite không cao.
Hình 8. Cấu trúc lớp thấm cacbon
a - hình tổng quát, b - theo chiều sâu lớp thấm cacbon
Chảy rộng (hình 9): Bề mặt mẫu thép bị nóng chảy
hoàn toàn, do tác động của của hồ quang plasma
và áp suất của khí lên vùng kim loại nóng chảy, kim
loại lỏng dạt về 2 rìa ngoài. Tùy thuộc vào chế độ
gia công và lượng lớp phủ, độ nhám bề mặt (Ra)
tĕng cao Ra >10 µm.
Hình 9. Bề mặt vùng gia công
a - bề mặt mẫu, b - cấu trúc 3D
Trạng thái chảy vi mô hay chảy rộng của bề mặt chi
tiết phụ thuộc vào mật độ nĕng lượng dòng plasma
và lượng hỗn hợp vật liệu phủ trên bề mặt chi tiết.
Dựa trên các thí nghiệm đã thực hiện ta thấy rằng
với mỗi lượng lớp phủ nhất định, có tương ứng một
giá trị mật độ nĕng lượng mà bề mặt chi tiết không
bị nóng chảy hoàn toàn (trạng thái chảy rộng) và
chiều sâu lớp thấm cacbon đạt lớn nhất. Hình 10
biểu diễn sự phụ thuộc mật độ nĕng lượng vào
lượng lớp phủ trên bề mặt khi sử dụng lớp phủ
graphite chứa 33% bột graphite.
Hình 10. Phụ thuộc mật độ năng lượng vào lượng
lớp phủ trên bề mặt (33% graphite)
Khi sử dụng lớp phủ chứa 33% graphite, khối lượng
phủ β =110 g/m2 (độ dày lớp phủ 0.25 mm).
Khi F < 47-48 (J/mm2), lượng nhiệt cung cấp để
nung nóng lớp phủ không đủ, không xảy ra quá
trình thấm cacbon.
b)
a)
b)
a)
LIÊN NGÀNH CƠ KHÍ - ĐỘNG LỰC
45Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Khi F > 60 (J/mm2), lượng nhiệt cung cấp lớn dẫn
đến nóng chảy bề mặt, quá trình thấm cacbon vẫn
diễn ra.
Khi 47 < F < 60 (J/mm2), quá trình thấm cacbon xảy
ra ở trạng thái chảy vi mô, khi tĕng F độ sâu lớp
thấm tĕng theo. Trong nghiên cứu này việc tĕng,
giảm F được thực hiện bằng việc tĕng, giảm cường
độ dòng điện, các thông số khác không thay đổi).
Để nghiên cứu cấu trúc vùng thấm cacbon, tạo các
mẫu thử, qua thực nghiệm cho thấy, việc giảm nồng
độ axit (1-3%) và tĕng thời gian tẩm thực (3-7phút)
cho phép nhận được cấu trúc lớp thấm cacbon rõ
hơn dưới kính hiển vi quang học. Dựa trên kết quả
các thí nghiệm đã thực hiện nhận thấy rằng việc
giảm nồng độ axit và tĕng thời gian tẩm thực cho
phép quan sát cấu trúc vùng thấm cacbon tốt hơn.
Trong các nghiên cứu [2,7,9-11], chiều sâu lớp
thấm cacbon có thể đạt 3 mm. Độ cứng lớp thấm
cacbon phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng các
bon. Độ cứng lớn nhất khi hàm lượng cacbon từ
0,7-0,9% [3]. Khi hàm lượng cacbon tĕng dần, dẫn
đến việc hạ nhiệt độ điểm bắt đầu tạo martensite,
xuất hiện austen