The effects of education on Vietnamese youth’s purposes of life

Abstract: The main objective of this research was to analyze the relationship between eduation levels of Vietnamse Youth and their puposes of life. We used the data from the School-to-Work Transition Survey-SWTS in 2012-2015. Both descriptive statistics and multinomial logit regression analyses were used for the study. We provide the first evidence that higher levels of education is closely linked with having purpose of non-monetary life purposes, namely contributing to society; a successful career or a happy family. In addtion, such effects tend to increase with higher levels of education. Thus, our research finding implies that better education not only offers economic benefits for educated individuals but also for their family, communities and society.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 41 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu The effects of education on Vietnamese youth’s purposes of life, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 1 Review Articles The Effects of Education on Vietnamese Youth’s Purposes of Life Nguyen Quy Thanh1,*, Le Thai Hung1, Tang Thi Thuy1, Tran Lan Anh1, Nguyen Thuy Anh2, Le Thi Hoang Ha1, Vu Phuong Lien1, Nguyen Thi Bich1 1VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 24 September 2020 Revised 24 September 2020; Accepted 24 September 2020 Abstract: The main objective of this research was to analyze the relationship between eduation levels of Vietnamse Youth and their puposes of life. We used the data from the School-to-Work Transition Survey-SWTS in 2012-2015. Both descriptive statistics and multinomial logit regression analyses were used for the study. We provide the first evidence that higher levels of education is closely linked with having purpose of non-monetary life purposes, namely contributing to society; a successful career or a happy family. In addtion, such effects tend to increase with higher levels of education. Thus, our research finding implies that better education not only offers economic benefits for educated individuals but also for their family, communities and society. Keywords: Education; Multinomial logit model; purposes of life; Vietnamese youth. D* _______ * Corresponding author. E-mail address: nqthanh@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4447 N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 2 Tác động của giáo dục tới mục đích cuộc sống của thanh niên Việt Nam Nguyễn Quý Thanh1,*, Lê Thái Hưng1, Tăng Thị Thùy1, Trần Lan Anh1, Nguyễn Thùy Anh2, Lê Thị Hoàng Hà1, Vũ Phương Liên1, Nguyễn Thị Bích1 1Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 24 tháng 9 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 24 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 9 năm 2020 Tóm tắt: Mục tiêu chính của bài viết này là phân tích mối quan hệ giữa trình độ giáo dục với mục đích cuộc sống của thanh niên Việt Nam. Chúng tôi sử dụng dữ liệu từ cuộc Điều tra quốc gia chuyển tiếp từ trường học đến việc làm (School-to-Work Transition Survey-SWTS) năm 2012 và 2015. Phân tích thống kê mô tả và hồi quy logit đa thức (multinomial logit regression) được sử dụng trong nghiên cứu. Bài viết đưa ra bằng chứng định lượng đầu tiên ở Việt Nam rằng giáo dục cao hơn có ảnh hưởng lớn tới sự lựa chọn mục đích cuộc sống như sự thành công sự nghiệp, gia đình hạnh phúc và đóng góp cho xã hội. Hơn nữa, tác động này càng mạnh hơn cho các bậc học vấn cao hơn. Do vậy, kết quả này hàm ý rằng giáo dục không chỉ có tác động tích cực về mặt kinh tế với cá nhân người học, mà còn có tác động tích cực cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Từ khóa: Giáo dục, mục đích cuộc sống, logit đa thức; thanh niên Việt Nam. 1. Giới thiệu * Dưới góc độ kinh tế thì chi tiêu cho giáo dục được coi như là đầu tư vào nguồn vốn nhân lực, đem lại tác động trực tiếp cho người học và lợi ích ích cho toàn bộ xã hội. Nhìn chung, các bằng chứng đều cho thấy điều kiện kinh tế của nhóm có học vấn cao sẽ tốt hơn nhóm có học vấn thấp (Vila, 2000) [1]. Có thể chưa chính xác nếu cho rằng toàn bộ sự khác biệt về điều kiện kinh tế giữa các các nhân là do giáo dục. Đó là vì có nhiều nhân tố khác như năng khiếu bẩm sinh, hoàn cảnh gia đình, sự tương tác trong quá trình học tập và làm việc cũng như có vô số nhân tố khác có ảnh hưởng tới sự khác biệt về kinh tế giữa các các nhân. Tuy nhiên, bằng chứng khoa học khẳng định rằng với các điều kiện khác là như nhau, các cá nhân có giáo dục tốt hơn, nhìn chung, sẽ có công việc tốt hơn _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: nqthanh@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4447 và thu nhập cao hơn những người có giáo dục thấp hơn (Doan, Le, & Tran, 2018; Vila, 2000) [1, 2]. Giáo dục không chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho người học, mà nó còn đem lại nhưng tác động phi tiền tệ khác không chỉ đối với cá nhân mà còn với xã hội, cộng đồng và quốc gia. Thực tế cho thấy những địa phương có mặt bằng giáo dục cao hơn thường có mức sống cao hơn, cả về khía cạnh vật chất và tinh thần, so với những nơi có mặt bằng giáo dục thấp hơn (Vila, 2000; Wolfe & Haveman, 1988) [1, 3]. Phần lớn các nghiên cứu thường phân tích lợi ích tiền tệ, mà ít xem xét các lợi ích không đo bằng tiền mà giáo dục đem lại cho người học (Fabra & Camisón, 2009; Nguyễn, Nguyễn, Trần, & Nguyễn, 2020; Vila, 2000) [1, 4, 5, 6]. Những người có trình độ giáo dục tốt hơn sẽ có được những lợi ích phi tiền tệ từ nhiều khía cạnh, cụ thể là người lao động có được công việc ổn định và thú vị, công việc có tính tự chủ cao, điều kiện làm việc tốt hơn và mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp,(Vila, 2000) [1]. Bên cạnh đó, trình độ giáo dục cao hơn sẽ tạo ra N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 3 ngoại ứng tích cực tới gia đình, cộng động, xã hội và quốc gia. Ví dụ, các bà mẹ có học vấn tốt sẽ chăm sóc và nuôi dạy trẻ tốt hơn, thanh thiếu niên có giáo dục tốt sẽ giảm nguy cơ mang thai ở tuổi vị thành viên, giảm tỷ lệ hút thuốc, nghiện rượu phạm tội và tái phạm tội và gia tăng niềm tin trong cộng đồng (vốn xã hội) cũng như rất nhiều các lợi ích phi tiền tệ khác mà giáo dục đem lại (Dziechciarz-Duda & Król, 2013; Nguyễn et al., 2020; Wolfe & Haveman, 1988) [3, 5, 7]. Cho tới nay, có khá nhiều nghiên cứu về tác động của giáo dục và đào tạo tới lựa chọn công việc, năng suất lao động, tiền lương và thu nhập của lao động ở Việt Nam (Doan et al., 2018; Nguyen et al., 2020; Tran, Pham, Vo, Luu, & Nguyen, 2019) [2, 5, 6]. Qua tổng quan nghiên cứu cho thấy còn ít các nghiên cứu về tác động của giáo dục tới các khía cạnh phi tiền tệ. Gần đây, một nghiên cứu của Nguyễn et al. (2020) [6] đã phân tích hồi quy về tác động của giáo dục tới sự hài lòng công việc của nhóm lao động trẻ (15-29 tuổi) ở Việt Nam. Nhóm tác giả sử dụng dữ liệu gộp 2013-2015 và mô hình hồi quy logit đa thức và kết quả cho thấy thanh niên có mức độ giáo dục càng cao thì khả năng hài lòng với công việc càng thấp. Nhóm tác giả cho rằng kết quả này cũng tương tự như ở một số nước và họ lý giải rằng người lao động có giáo dục tốt hơn thường có kỳ vọng cao hơn với công việc, và do vậy họ có xu hướng hài lòng với công việc ít hơn. Các nghiên cứu cũng cho rằng giáo dục có tác động với người học ở khía cạnh tinh thần. Cụ thể, người có học vấn cao sẽ sống một cuộc sống có ý nghĩa với mục đích cuộc sống nhân văn hơn đem lại nhiều lợi ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội (Schinkel, De Ruyter, & Aviram, 2016) [8]. Với mỗi cá nhân, nhu cầu về vật chất cho chính họ có thể được coi trọng hơn. Tuy nhiên, với các điều kiện khác như nhau, các cá nhân có học vấn cao hơn sẽ có thể có nhu cầu cuộc sống vượt ra ngoài khía cạnh vật chất, hướng tới các khía cạnh tình thần, lợi ích cho cộng đồng và xã hội. Nói cách khác, trình độ học vấn khác nhau có thể dẫn tới mục đích cuộc sống khác nhau. Đây chính là giả thuyết nghiên cứu hay câu hỏi nghiên cứu chính của bài viết này. Nghiên cứu này kiểm định giả thuyết nghiên cứu rằng trình độ giáo dục khác nhau có dẫn tới mục đích cuộc sống khác nhau của thanh niên Việt Nam hay không? Bài viết có kết cấu như sau: Dữ liệu và phương pháp phân tích được trình bày ở mục 2. Kết quả phân tích và thảo luận được trình bày ở mục 3, và kết luận cùng hàm ý chính sách sẽ trình bày ở mục 4. 2. Dữ liệu và phương pháp phân tích 2.1. Nguồn dữ liệu Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu chéo gộp từ hai cuộc điều tra quốc gia chuyển tiếp từ trường học đến việc làm (School-to-Work Transition Survey-SWTS) các năm 2012 và 2015. Cuộc điều tra nhằm thu thập dữ liệu cho Dự án Việc làm cho Thanh niên (Work4Youth) trong khuôn khổ hợp tác giữa Chương trình "Việc làm Thanh niên" của ILO [International Labour Organization] và Quỹ MasterCard. Việt Nam là một trong số 28 quốc gia1 tham gia các cuộc điều tra này. Điều tra SWTS năm 2012 và 2015 lấy mẫu khoảng 3.000 hộ gia đình tại 20 tỉnh và thành phố2. Các hộ gia đình được khảo sát với phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên từ các thông tin của dàn mẫu được lấy từ bộ dữ _______ 1 28 quốc gia trong các khu vực bao gồm: Châu Á-Thái Bình Dương (5): Bangladesh, Campuchia, Nepal, Samoa và Việt Nam; Đông Âu và Trung Á (6): Armenia, Kyrgyztan, Macedonia, cộng hòa Moldova, Liên bang Nga và Ukraina; Châu Mỹ -La tinh và Caribe (5): Braxin, Colombia, El Salvador, Jamaica và Peru; Trung Đông và Bắc Phi (4): Ai Cập, Jordan, Palestine và Tunisia; Tiểu vùng Sahara Châu Phi (8): Benin, Liberia, Madagascar, Malawi, Tanzania, Togo, Uganda và Zambia. 2 Năm 2012: 20 tỉnh được điều tra bao gồm gồm: Hà Nội, Lào Cai, Hòa Bình, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Phú Thọ, Thái Bình, Ninh Bình, Nghệ An, Huế, Bình Định, Bình Thuận, Đắk Lăk, Lâm Đồng, Đồng Nai, TP. HCM, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ, Cà Mau. Năm 2015: 20 tỉnh được điều tra năm 2015 gồm: Hà Nội, Lào Cai, Sơn La, Bắc Giang, Phú Thọ, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Huế, Quảng Nam, Bình Định, Gia Lai, Lâm Đồng, Bình Dương,TP. HCM, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu. N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 4 liệu Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2012 và 2015. Cuộc khảo sát thu thập thông tin chi tiết với từng thành viên gia đình của hộ có độ tuổi từ 15 đến 29. Tổng số người được hỏi cuối cùng của mỗi cuộc điều tra là khoảng 2700. Dữ liệu của SWTS lưu trữ các thông tin chi tiết về lao động trẻ (15-29 tuổi) bao gồm các thông tin vềtuổi, giới tính, giáo dục và đào tạo, việc làm, công việc và thu nhập và các thông tin liên quan tới điều kiện làm việc và hoàn cảnh gia đình của lao động trẻ như công việc, giáo dục của cha mẹ. Đặc biệt, đây là cuộc điều tra duy nhất có thu thập các thông tin về các khía cạnh cuộc sống của thanh niên Việt Nam như mục đích cuộc sống, mong muốn công việc được làm và sự hài lòng công việc. Những thông tin này không có trong các cuộc điều tra khác ở Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi sẽ sử dụng mẫu lao động trẻ (hay thanh niên) có đánh giá về mục đích cuộc sống của mình trong hai năm 2012 và 2015. Chúng tôi kết hợp dữ liệu cả hai năm, và tạo thành bộ dữ liệu chéo gộp (pooled cross-sectional data) với tổng số quan sát là 2552. 2.2. Phương pháp phân tích Bài viết sử dụng phân tích thống kê mô tả và phân tích hồi quy logit đa thức (multinomial logit model: MNL). Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để cung cấp các thông tin cơ bản về đặc điểm của lao động trẻ như giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tần suất về các biến số và mối quan hệ giữa các biến số theo một vài đặc điểm như giới tính hay nghề nghiệp. Biến số mục đích cuộc sống là biến phạm trù có 4 giá trị với câu hỏi là “ Bạn hãy cho biết mục đích chính, hay mục đích quan trọng nhất trong cuộc sống của bạn là gì?” Và 4 phương án trả lời được mã hóa như sau: (1) thành công trong sự nghiệp; (2) đóng góp cho xã hội; (3) có nhiều tiền;(4) gia đình hạnh phúc. Do vậy, chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy logit đa thức (Long, 1997) [9] với biến phụ thuộc là mục đích cuộc sống, và phạm trù kiếm nhiều tiền (3) được sử dụng là nhóm tham chiếu hay phạm trù cơ sở (reference or base group), và các mục đích 1, 2, 4 là nhóm so sánh. Điều đó có nghĩa kết quả được diễn giải trong quan hệ xác xuất tương đối giữa một nhóm so sánh và nhóm tham chiếu. Mô hình dưới đây sẽ được sử dụng để đánh giá tác động của giáo dục tới mục đích cuộc sống của thanh niên, có sự kiểm soát các biến số liên quan khác được trình bày ở Bảng 1. ij0 1 1 2 ij 3 ij 4 5 6 ij ij (1)iPL X Ed O Y t R E              Trong các mô hình trên, iPL là biến phụ thuộc, thể hiện mục đích cuộc sống của thanh niên; ij X bao gồm các đặc điểm cá nhân và hộ gia đình như giới tính, tuổi, tình trạng hôn nhân, sức khỏe của lao động trẻ, điều kiện kinh tế, quy mô hộ ; ijEd đo lường giáo dục của lao động trẻ ở bằng cấp cao nhất có được ( nhóm không bằng cấp là nhóm so sánh); ijO là biến đặc điểm công việc (nhóm lao động không có kỹ năng là nhóm so sánh); ijY là biến thu nhập của hộ và T là biến giả năm (2015); ijR là biến giả vùng (các tỉnh thành khác ngoài Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là nhóm so sánh) và ijE là sai số trong mô hình (Lưu ý là i và t biểu thị thanh niên thứ i ở năm t). 3. Kết quả phân tích và thảo luận 3.1. Phân tích thống kê mô tả Bảng 1 trình bày kết quả tính toán cho các biến được sử dụng trong phân tích thống kê mô tả và phân tích hồi quy. Tỷ lệ giới tính của mẫu khá bằng nhau và độ tuổi được phân bố như sau: 19% dưới 20, khoảng 39% từ 20-24 và 42% từ 25-29. Tỷ lệ kết hôn là khoảng 46% cho hai năm, vào cao hơn không đáng kể vào năm sau (47%) so với năm trước (45%). Khoảng 6% cho rằng ít nhất có một khuyết tật về thể trạng. Tỷ lệ lao động không kỹ năng (lao động giản đơn) giảm từ 32% xuống 26% trong hai kỳ điều tra, và tương ứng là sự tăng lên trong tỷ lệ lao động trực tiếp có kỹ năng (từ 35% lên 38%), và lao động gián tiếp kỹ năng cao (từ 14% lên N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 5 16%). Tính trung bình toàn mẫu, tỷ lệ thanh niên chưa hoàn thành tiểu học hoặc chưa đi học là 5%. Tỷ lệ có bằng cao đẳng, đại học tăng đáng kể, từ 16% lên 20%, và tương ứng tỷ lệ có bằng chuyên môn nghề nghiệp tăng từ 6% lên 10%. Về điều kiện kinh tế của gia đình, có khoảng 7% hộ nghèo, 15% cận nghèo, đại đa số là trung bình 73%, và chỉ 4% giàu. Bảng 1. Định nghĩa, đo lường và thống kê mô tả cho các biến số trong mô hình Biến số sử dụng 2012 2015 2012-2015 Giới tính (1=nam; 0=nữ), nữ là nhóm so sánh 52% 52% 52% Tuổi 15-19: là nhóm so sánh 20% 18% 19% Tuổi 20-24 37% 41% 39% Tuổi 25-29 43% 40% 42% Hôn nhân (1=kết hôn: 0=không): chưa/không là nhóm so sánh 45% 47% 46% Khuyết tật (Có bị ít nhất một khuyết tật=1; 0=không): không là nhóm so sánh 6% 6% 6% Lao động không kỹ năng (1=có; 0=không): là nhóm so sánh 32% 26% 30% Lao động trực tiếp kỹ năng (1=có; 0=không) 35% 38% 36% Lao động gián tiếp kỹ năng thấp (1=có; 0=không) 19% 20% 19% Lao động gián tiếp kỹ năng cao (1=có; 0=không) 14% 16% 15% Không học/không bằng cấp (1=có; 0=không) là nhóm so sánh 6% 5% 5% Tiểu học (1=có; 0=không) 22% 19% 20% Trung học cơ sở (1=có; 0=không) 28% 30% 29% Trung học phổ thông (1=có; 0=không) 23% 17% 20% Trung cấp nghề/chuyên nghiệp (1=có; 0=không) 6% 10% 7% Cao đẳng, đại học và trên đại học (1=có; 0=không) 16% 20% 18% Quy mô hộ ( tổng số thành viên hộ) 4.79 4.67 4.74 Nghèo (1=có; 0=không) là nhóm so sánh 5% 10% 7% Cận nghèo (1=có; 0=không) 15% 16% 15% Trung bình (1=có; 0=không) 76% 71% 73% Giàu có (1=có; 0=không) 5% 4% 4% Thành thị (1=có; 0=nông thôn), nông thôn là nhóm so sánh 43% 44% 43% Trung du và miền núi phía Bắc (1=có; 0=không) 19% 15% 17% Đồng bằng sông Hồng (1=có; 0=không) 19% 23% 21% Duyên hải miền trung (1=có; 0=không) 16% 19% 17% Tây nguyên (1=có; 0=không) 9% 11% 10% Đông Nam Bộ (1=có; 0=không) 19% 16% 18% Tây Nam Bộ (1=có; 0=không) 18% 16% 17% Số quan sát 1411 1112 2553 Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ SWTS 2012-2015. Mẫu chỉ tính với quan sát lao động trẻ với các biến số trên không bị missing. N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 6 Bảng 2. Mục đích cuộc sống của thanh niên, 2012-2015 2012 2015 2012-2015 Mục đích cuộc sống Số quan sát Tỷ lệ Số quan sát Tỷ lệ Số quan sát Tỷ lệ Thành công sự nghiệp 180 12% 157 14% 337 13% Đóng góp cho xã hội 31 2% 35 3% 66 3% Kiếm nhiều tiền 475 33% 330 30% 805 32% Gia đình hạnh phúc 755 52% 590 53% 1,345 53% 1441 1112 2553 6 Bảng 2 mô tả các tham số về biến phụ thuộc. Tính chung toàn mẫu thời kỳ 2012-2015, 53% cho là mục đích chính cuộc sống là có một gia đình hạnh phúc, 32% cho rằng kiếm nhiều tiền, 13% đề cao sự thành công sự nghiệp là mục tiêu chính của cuộc đời, chỉ 3% cho rằng đóng góp cho xã hội là mục chính của cuộc sống. Về cơ bản, cơ cấu trả lời qua hai kỳ điều tra không có sự khác biệt. Tỷ lệ thanh niên đánh giá mục đích chính cuộc sống là có tiền nhiều giảm 3 điểm phần trăm, trong số thanh niên cho rằng thành công sự nghiệp là mục đích chính cuộc sống tăng thêm hai điểm phần trăm qua thời kỳ 2012-2015. 3.2. Phân tích tác động của giáo dục tới mục đích cuộc sống Bảng 3 báo cáo kết quả hồi quy logit đa thức về tác động của giáo dục tới mục đích cuộc sống của thanh viên Việt Nam. Như đã nêu ở phần dữ liệu và phương pháp, biến phụ thuộc là mục đích cuộc sống với lựa chọn một trong ba ý: (1) Thành công trong sự nghiệp, (2) đóng góp cho xã hội; và (4) gia đình hạnh phúc với lưu ý là trong đó lựa chọn (3) được dùng làm phạm trù tham chiếu hay phạm trù cơ sở để so sánh với nhóm 1, 2 và 4. Giá trị mũ của hệ số hồi quy logit đa thức chính là tỷ số nguy cơ (xác suất) tương đối (RRR) được báo cáo trong Bảng 3. Bảng 3 cho thấy khả năng (nguy cơ hay xác xuất tương đối) cho rằng mục đích chính cuộc sống là thành công sự nghiệp (hơn là kiếm nhiều tiền: nhóm tham chiếu) sẽ cao hơn 2,91 lần với một thanh niên có bằng tiểu học so với nhóm so sánh (thanh niên không đi học/hoặc không học hết lớp 1). Bảng 3. Tác động của giáo dục tới mục đích cuộc sống của thanh niên Biến giải thích Thành công sự nghiệp Đóng góp cho xã hội Gia đình hạnh phúc Tiểu học 2.91* 1.88 1.37 (1.825) (2.101) (0.285) Trung học cơ sở 3.87** 2.12 1.25 (2.385) (2.318) (0.255) Trung học phổ thông 6.89*** 9.36** 1.55** (4.310) (10.186) (0.338) Trung cấp/nghề 16.97*** 12.56** 1.73* (11.134) (14.493) (0.498) Cao đẳng/đại học 37.07*** 44.93*** 3.05*** (24.179) (50.601) (0.870) N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 7 Giới 0.90 1.16 0.40*** (0.138) (0.338) (0.040) Tuổi 0.94** 0.94 1.00 (0.023) (0.047) (0.015) Kết hôn 0.66** 0.68 1.91*** (0.119) (0.236) (0.220) Khuyết tật 0.69 1.51 0.99 (0.228) (0.728) (0.200) Lao động trực tiếp có kỹ năng 1.64** 0.66 0.98 (0.340) (0.265) (0.114) Lao động gián tiếp kỹ năng thấp 1.40 1.09 0.91 (0.364) (0.514) (0.142) Lao động gián tiếp kỹ năng cao 3.69*** 1.81 1.47 (1.211) (0.982) (0.376) Quy mô hộ 1.09** 0.99 1.00 (0.047) (0.086) (0.029) Hộ cận nghèo 1.03 0.36 1.17 (0.385) (0.245) (0.236) Hộ trung bình 1.26 0.57 1.60*** (0.427) (0.308) (0.292) Hộ khá hoặc giàu 3.33*** 1.81 1.82* (1.507) (1.265) (0.599) Thành thị 0.86 0.53** 0.76*** (0.139) (0.164) (0.081) Hà Nội 0.50*** 0.76 0.84 (0.114) (0.280) (0.135) TP Hồ Chí Minh 1.25 0.85 1.00 (0.279) (0.400) (0.164) Năm 2015 1.12 1.44 1.12 (0.162) (0.390) (0.109) Constant 0.09*** 0.10 1.13 (0.080) (0.160) (0.500) Pseudo R2 0.123 Quan sát 2,552 *,**,*** ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%. N.Q. Thanh et al. / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-9 8 Khả năng này càng lớn hơn cho các nhóm có bằng cấp cao hơn, lần lượt là 3,87; 6,89; 16,97 và 37,07 cho nhóm có bằng THCS, THPT, trung cấp nghề/chuyên nghiệp và cao đẳng/đại học. Điều đó cho thấy những thanh niên có học vấn càng cao thì sẽ càng có khả năng lựa chọn mục đích cuộc sống là thành công trong sự nghiệp hơn là chỉ có nhiều tiền. Với lựa chọn mục đích cuộc sống là đóng góp cho xã hội hay gia đình hạnh phúc, kết quả cho thấy chỉ số