Thi pháp học thể loại là một trong
những khuynh hướng nghiên cứu cơ bản
của Thi pháp học. Tính từ thời điểm ra đời
công trình Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp
học) của Aristote (thế kỷ IV TCN) đến nay,
Thi pháp học thể loại đã có bề dày 24 thế
kỷ. Trên hành trình phát triển từ cổ điển
đến hiện đại, khuynh hướng này đã trải qua
nhiều sự biến đổi lớn. Từ đầu thế kỷ XX,
bên cạnh những công trình nghiên cứu quy
phạm thể loại, còn xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu sự cách tân thể loại. Tìm
hiểu khuynh hướng nghiên cứu này, chúng
ta cũng hình dung được phần nào quá trình
phát triển của văn chương trên thế giới và
Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thi pháp học thể loại – Từ cổ điển đến hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015
12
Thi pháp học thể loại – Từ cổ điển đến hiện đại
Genre-Based poetics – From classic to modern
TS. Phạm Ngọc Hiền
Trường Đại học Sài Gòn
Ph.D. Pham Ngoc Hien
Sai Gon University
Tóm tắt
Khuynh hướng Thi pháp học thể loại đã xuất hiện từ thời cổ đại. Đến nay, nó vẫn là hướng nghiên cứu
chủ lực trong các khuynh hướng của Thi pháp học. Bài viết phác họa bức tranh tổng thể về tình hình
nghiên cứu Thi pháp học thể loại trên thế giới và Việt Nam. Hy vọng rằng, nó sẽ giúp người đọc hình
dung được phần nào sự phát triển của văn học.
Từ khóa: thi pháp học, thể loại, loại hình, nghệ thuật thơ ca
Abstract
The trend of Genre-Based Poetics has appeared since ancient times. To date, it remains the key research
direction in various trends of Poetics. The article outlines the overall picture of the situation of studies
about Genre-Based Poetics in the World and Vietnam. Hopefully, it will help readers visualize the
evolution of literary.
Keywords: poetics, genre, type, poetry and art
Thi pháp học thể loại là một trong
những khuynh hướng nghiên cứu cơ bản
của Thi pháp học. Tính từ thời điểm ra đời
công trình Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp
học) của Aristote (thế kỷ IV TCN) đến nay,
Thi pháp học thể loại đã có bề dày 24 thế
kỷ. Trên hành trình phát triển từ cổ điển
đến hiện đại, khuynh hướng này đã trải qua
nhiều sự biến đổi lớn. Từ đầu thế kỷ XX,
bên cạnh những công trình nghiên cứu quy
phạm thể loại, còn xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu sự cách tân thể loại. Tìm
hiểu khuynh hướng nghiên cứu này, chúng
ta cũng hình dung được phần nào quá trình
phát triển của văn chương trên thế giới và
Việt Nam.
1. Khuynh hướng Thi pháp học thể loại
trên thế giới
1.1. Thi pháp học thể loại cổ điển
Từ thế kỷ XIX trở về trước, những
công trình nghiên cứu về thể loại văn
chương thường được xếp vào khuynh
hướng Thi pháp học cổ điển, còn gọi là Thi
pháp học sáng tác, Thi pháp học quy phạm.
Khuynh hướng này thường nghiên cứu các
tác phẩm, thể loại văn chương từ những
khuôn mẫu có sẵn. Nó tìm hiểu việc nhà
văn có tuân thủ các nguyên tắc thể loại hay
không. Ví dụ, xây dựng cốt truyện kịch thì
phải quán triệt luật “tam duy nhất”, sáng
tác thơ Đường thì phải theo đúng hệ thống
niêm luật chặt chẽ của thể loại này Việc
nghiên cứu thi pháp thể loại nhằm hướng
tới mục đích chính là dạy cách sáng tác và
13
cảm thụ vẻ đẹp nghệ thuật
Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote dạy
học trò cách thức sáng tác, cảm thụ các loại
hình tự sự, trữ tình và kịch. Ông phân tích
một số tác phẩm tiêu biểu của văn chương
Hy Lạp để minh họa. Kết cấu của công
trình Nghệ thuật thơ ca như sau:
1. Mở đầu, phân loại nghệ thuật; 2.
Phân loại tính cách trong các thể loại; 3.
Mô phỏng như thế nào; 4. Nguyên nhân
nảy sinh nghệ thuật thơ ca; 5. Đặc điểm của
hài kịch; 6. Đặc điểm của bi kịch; 7. Cách
sắp xếp hành động trong bi kịch; 8. Sự
thống nhất hành động nhân vật sử thi; 9.
Cách xây dựng những tình huống bất ngờ,
“cái có thể xảy ra” trong cốt truyện; 10. Cốt
truyện đơn giản và cốt truyện phức tạp; 11.
Sự đột biến và nhận thức của nhân vật
trong cốt truyện; 12. Bố cục của một vở
kịch; 13. Các cảm xúc mỹ học: đáng sợ và
đáng thương, hạnh phúc và bất hạnh; 14.
Bàn thêm về các biến cố đáng sợ và đáng
thương trong cốt truyện kịch, 15. Tính cách
cần phải cao thượng, thích hợp, giống thật,
nhất quán. 16. Sự nhận biết dựa vào dấu
hiệu bên ngoài, sự sắp đặt, hồi ức, suy luận;
17. Sự miêu tả các tình tiết trong cốt truyện;
18. Thắt nút và mở nút; 19. Ngôn từ và tư
tưởng; 20. Cách dùng âm, vần, từ, câu; 21.
Các loại từ: đơn - phức, thông dụng - ít
dùng, kéo dài - rút ngắn; 22. Mỹ từ pháp,
phép tu từ ẩn dụ; 23. Sự duy nhất về thời
gian; 24. Sử thi: độ dài, kết cấu, cách luật,
cái kỳ lạ và phi lý; 25. Nhiệm vụ của nhà
thơ; 26. Bi kịch cao quý hơn sử thi.
Có thể thấy quan điểm chủ đạo của ông
trong đoạn mở đầu tác phẩm: “Chúng ta sẽ
bàn về nghệ thuật thơ ca nói chung, về các
thể loại riêng của nó, cũng như ý nghĩa mỗi
thể loại, và cốt truyện cần phải xây dựng ra
sao cho tác phẩm được hay () Sử thi, bi
kịch, hài kịch và tụng ca, đại bộ phận nhạc
sáo, nhạc đàn lục huyền - tất cả những cái
đó nói chung đều là những nghệ thuật mô
phỏng; giữa chúng có ba điểm khác nhau:
mô phỏng bằng cái gì [phương tiện], mô
phỏng cái gì [đối tượng], mô phỏng như thế
nào [cách thức]” [1, tr.15].
Aristote cho rằng, nghệ thuật bắt
nguồn từ sự bắt chước. Nhưng để tác phẩm
hấp dẫn, nhà thơ còn phải biết “tạo kinh
ngạc” bằng những hành động biểu diễn ấn
tượng. Tác giả nên sử dụng nhiều lối nói tu
từ, đặc biệt là phép ẩn dụ, nên dùng các từ
lạ, hoa mỹ để tránh sự tầm thường, nhạt
nhẽo. Ông lấy ví dụ, câu “Cái nhọt chân tôi
xâm thực xác tôi” không hay bằng câu “Cái
nhọt chân tôi gặm mòn xác tôi”. Cụm từ
“chiếc ghế tuyệt đẹp” không hay bằng
“chiếc ghế hoa lệ”. Nên dùng các từ như:
“tuổi già của một ngày” (buổi chiều), “buổi
chiều của cuộc sống”, “buổi hoàng hôn của
cuộc đời” (tuổi già). Đây cũng chính là thủ
pháp “lạ hóa” mà sau này được trường phái
Hình thức cổ súy.
Như vậy, Aristote phân tích “Nghệ
thuật thơ ca” để dạy phương pháp sáng tác.
Những nguyên lý Thi học cổ điển của ông
đã chi phối nền văn nghệ châu Âu suốt thời
cổ trung đại. Sau Aristote, còn có một số
nhà lý luận khác cũng có công trình về Thi
pháp học như Horace, Trissin, Tasso,
Scaliger, Longinus, Caxtenvestro, Minturno,
Lessing Vào thế kỷ XVII, ở Pháp,
Boileau đã hiện đại hóa Aristote qua tác
phẩm Bàn về nghệ thuật thơ ca (còn gọi là
Thi học, Nghệ thuật thơ). Ông cũng dạy
cách sáng tác nghệ thuật: “Các ngài có
muốn được công chúng mến mộ không?/
Vậy thì khi viết hãy luôn luôn chuyển đổi
ngôn từ” [5, tr.431].
Ở phương Đông, các quốc gia lớn
cũng xuất hiện nhiều công trình bàn về
cách thức sáng tác và quy phạm thể loại.
Từ thời cổ đại, Ấn Độ có các công trình Lý
luận về kịch của Bharata (thế kỷ II),
Bahamaha (thế kỷ V - VI), Anandavardhana
(thế kỷ IX) Họ có bàn đến trải nghiệm
14
xúc cảm, cách sử dụng các biện pháp tu từ,
sự khêu gợi ẩn ý để làm cho lời văn hoa
mỹ, có sức lôi cuốn. Thi pháp Ấn Độ coi
trọng yếu tố cảm hứng, đề cao sự phản ánh
chủ quan hơn là “bắt chước”, “mô phỏng”
khách quan (như thi pháp Hy Lạp cổ đại).
Ở Nhật Bản, các công trình Thi pháp
học không nhiều. Nhưng qua những phát
biểu về quan niệm nghệ thuật của các nhà
lý luận và nghệ sĩ, ta cũng có thể hình dung
được phương pháp sáng tác của họ. Nghệ
thuật truyền thống Nhật Bản coi trọng lối
biểu hiện tượng trưng, tạo ra nhiều khoảng
trống không gian, thời gian trong văn bản
để gợi tưởng (“thi pháp chân không”).
Phần lớn tác phẩm của họ nhằm hướng đến
thể hiện niềm bi cảm trước cái đẹp (aware).
J. Kristeva gọi đây là nền “Thi học của
nước mắt”.
Ở Trung Quốc, vào thế kỷ V, có bộ
sách Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp. Đây
là công trình Lý luận văn chương đồ sộ
nhất ở phương Đông cổ trung đại. Văn tâm
điêu long gồm có 50 thiên, nội dung đề cập
đến khá nhiều lĩnh vực. Trong đó có một
số thiên mang màu sắc Thi pháp học rõ nét
nhất là: thiên 5. Biện tao (bàn về Ly tao và
Sở từ); 6. Minh thi (giảng giải về thơ); 7.
Nhạc phủ (âm nhạc cung đình); 8. Thuyên
phú (bàn về phú); 9. Tụng tán (nói về tụng
và tán); 16. Sử truyện (bàn về sử và
truyện); 18. Luận thuyết (thể lí luận và thể
thuyết phục); 27. Thể tính (bàn về cá tính);
29. Thông biến (thông suốt do bắt chước
và sau có thể biến hóa); 30. Định thể (văn
tự nhiên có hình thể); 31. Tình thái (tình
cảm và nghệ thuật diễn tả); 32. Thanh luật
(thanh và luật); 33. Chương cú (chương và
cú); 34. Dung tài (đúc gọt); 35. Lệ từ (làm
cho lời cân đối); 36. Tỉ hứng (tỉ và hứng);
37. Khoa sức (phóng đại và tô vẽ); 38. Sự
loại (lấy sự việc cùng loại mà dẫn chứng);
39. Luyện tự (luyện từ ngữ); 40. Ẩn tú (kín
đáo và nổi bật); 43. Phụ hội (tô vẽ thêm);
44. Tổng thuật (bàn chung các thuật); 45.
Thời tự (sự biến đổi văn chương theo các
thời); 46. Vật sắc (thanh sắc của sự vật);
47. Tài lược (tài năng, kiến thức); 48. Tri
kỉ (kẻ tri âm)
Lưu Hiệp bàn về tác giả, độc giả, mối
quan hệ giữa nghệ thuật và vũ trụ. Ông
cũng đề cập đến một số nội dung nằm
ngoài tác phẩm nghệ thuật như ở thiên 1.
Nguyên đạo (văn bắt nguồn ở tồn tại khách
quan). Ông cũng xét văn chương trong tiến
trình lịch sử: 2. Trưng Thánh (lấy căn cứ ở
thánh nhân), 3. Tôn kinh (đề cao các kinh),
4. Chính vĩ (chỉnh đốn những lời mê tín).
Nhưng phần lớn nội dung công trình bàn
về nghệ thuật viết văn (theo nghĩa rộng,
gồm các thể văn chương và ca nhạc). Ở
thiên cuối cùng (Tự chí), tác giả trình bày
lý do viết tác phẩm này như sau: “Văn tâm
điêu long viết ra lấy tồn tại khách quan
(đạo) làm gốc, lấy thánh nhân làm thầy, lấy
kinh làm bản chất (thể)”. Ta thấy Văn tâm
điêu long của Lưu Hiệp có vẻ sùng cổ hơn
Nghệ thuật thơ ca của Aristote. Dung
lượng của Văn tâm điêu long đồ sộ hơn
nhiều nhưng không thuần túy Thi pháp học
như Nghệ thuật thơ ca. Hai tác phẩm được
viết cách nhau khoảng một thế kỷ, đại diện
cho hai nền Thi pháp Đông - Tây.
Ngoài ra, ở Trung Quốc còn có nhiều
lời bàn về nghệ thuật viết văn của các nhà
lý luận khác như: Chung Vinh, Tiêu Thống,
Lục Cửu Uyên, Nghiêm Vũ, Bạch Cư Dị,
Tô Đông Pha, Âu Dương Tu, Viên Hoằng
Đạo, Kim Thánh Thán, Mao Tôn Cương,
Lương Khải Siêu Trong Tùy Viên thi
thoại, Viên Mai (1716 - 1798) đã hoàn
thiện và phát triển học thuyết “tính linh”, đề
cao tính cách và linh cảm, “tình chân thực,
lời khéo léo”. Thi pháp học Trung Quốc
thường mang màu sắc chính trị trong khi
Thi pháp học Ấn Độ mang đậm màu sắc
tôn giáo. Mặc dù quan niệm Thi pháp có
khác nhau chút ít giữa các nước nhưng
15
chúng đều mang nét chung cơ bản của Thi
pháp học cổ điển là đưa ra mô thức chung
của thể loại để dạy cách sáng tác.
1.2. Thi pháp học thể loại hiện đại
Sang thế kỷ XX, Thi pháp học thể loại
tách thành hai nhánh. Một nhánh vẫn tiếp
tục dòng chảy Thi pháp học quy phạm, một
nhánh nữa ủng hộ sự cách tân thể loại. Cả
hai nhánh này không mâu thuẫn mà bổ
sung cho nhau phản ánh sự đa dạng của đời
sống văn chương hiện đại.
Thi pháp học quy phạm vẫn tiếp tục
phát triển trên tinh thần mới. Nhiều tác
phẩm nghiên cứu thi luật văn chương trung
đại nhưng không phải để dạy sáng tác mà
chủ yếu là định hướng cho công việc phê
bình, học tập và nghiên cứu di sản văn hóa
dân tộc. Chẳng hạn như các công trình
nghiên cứu thể loại văn chương cổ điển
phương Đông: Nghệ thuật ngôn ngữ thơ
Đường (Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân), Thi
pháp thơ cổ điển Nhật Bản (thế kỷ VIII -
XIII) (I.A. Boronina), Thi pháp văn chương
trung đại phương Đông (nhiều tác giả)
Nếu như các nhà Thi pháp học cổ điển
thường nghiên cứu thể loại theo phương
pháp đồng đại thì các nhà Thi pháp học
hiện đại bổ sung thêm hướng nghiên cứu
lịch đại: Sự vận động của thời gian và quy
luật của thể loại (N. L. Leideman), Những
vấn đề thi pháp thể loại (Surin), Logic học
về các thể loại văn chương (K.
Hamburger), Thi pháp thơ Haiku trong thế
kỷ XX - những nhà thơ tiên phong (J.
Johnson) Một số tác phẩm cũng có mục
đích dạy phương pháp sáng tác nhưng ứng
dụng vào thực tiễn các loại hình nghệ thuật
hiện đại: Tu từ học tiểu thuyết (W. Booth),
Thi pháp kịch (D. Bordwell), Để viết một
kịch bản điện ảnh (M. Chion), Thi pháp
cho người viết kịch bản phim (L. Lee),
Nghệ thuật viết kịch bản điện ảnh (nhiều
tác giả - Pháp)
Cũng như các nhà Thi pháp học cổ
điển, các nhà Thi pháp học hiện đại tiếp tục
thừa nhận đặc trưng cơ bản nhất của thơ là
tính nhạc và sự trau chuốt ngôn từ. Tuy
nhiên, họ đi tìm những quy luật âm nhạc
mới, những cá tính sáng tạo của nhà thơ. Ở
mức cực đoan, trường phái Ngôn ngữ học
Nga đầu thế kỷ XX chủ trương sự “lạ hóa”
hoàn toàn trong thơ. Nếu như Thi pháp học
cổ điển quan tâm tìm hiểu mô hình sáng tác
của nhà thơ thì Thi pháp học hiện đại còn
quan tâm khám phá cả mô hình tác phẩm
do bạn đọc xây dựng. Họ không xem thể
loại là một khuôn mẫu khép kín mà là một
cấu trúc ngôn từ động. Tuy nhiên, nhiều
nhà Thi pháp học hiện đại không phủ nhận
thành quả của các bậc tiền bối. Họ chỉ xem
mình có trách nhiệm bổ sung thêm hướng
nghiên cứu mà tiền nhân đã khai mở. Có
thể thấy tinh thần đó trong các tác phẩm:
Thơ là gì? (R. Jakobson), Hiểu thơ, Hiểu
văn xuôi (C. Brooks và R.P. Warren), Bàn
về thơ ca, Bàn về văn xuôi (B. M.
Eikhenbaum), Thơ ca và văn xuôi (M.L.
Gasparov), Về câu thơ (B. V. Tomashevski),
Mô hình thơ (W. Scott), Nghệ thuật thơ ca
(H. Kenner)
Nếu như Thi pháp học cổ điển quan
tâm tới văn vần thì Thi pháp học hiện đại
quan tâm tới văn xuôi. Sự xuất hiện của
những công trình nghiên cứu thi pháp văn
xuôi như là sự bổ sung làm phong phú thêm
những thành tựu của Thi pháp học thể loại:
Nghệ thuật văn xuôi (G. Lanson), Nghệ
thuật tiểu thuyết (P. Lubbock), Tiểu thuyết
hiện đại (Brewster & J. A. Burrell), Thi
pháp văn xuôi (Hirss), Thi pháp truyện (T.
Pavel) M. Bakhtin / Medvedev rất quan
tâm tới thi pháp tiểu thuyết. Trong công
trình Những vấn đề thi pháp Dostoevski
cũng như nhiều bài viết khác, ông đã làm
sáng tỏ sự khác nhau giữa tiểu thuyết
truyền thống và hiện đại. Nếu như tiểu
thuyết truyền thống là đơn thanh (như sáng
tác của L. Tolstoi) thì tiểu thuyết hiện đại là
16
đa thanh (như sáng tác của Dostoevski).
Tính phức điệu này có nguồn gốc từ văn
hóa trào tiếu dân gian trong các lễ hội hóa
trang Canaval. Tinh thần chung của tiểu
thuyết hiện đại là tính dân chủ và chưa
hoàn tất. Nó là một cấu trúc động và mở.
Chủ nghĩa cấu trúc Âu - Mỹ chủ trương đi
tìm những cấu trúc mới, một tác phẩm có
thể có nhiều cấu trúc. Có người cho rằng,
tác giả đã chết, nhân vật không còn là hình
tượng trung tâm của tác phẩm. Mỗi tác
phẩm nghệ thuật là một phát minh mới mẻ
về nội dung và hình thức. A. R. Grillet cho
rằng: “Tiểu thuyết Mới không phải là một
lý thuyết, đó chỉ là một cuộc kiếm tìm”. Có
thể thấy những tiếng nói ủng hộ cho tiểu
thuyết Mới trong các tác phẩm: Vì một tiểu
thuyết Mới (A. R. Grillet), Nghệ thuật tiểu
thuyết (Kundera), Những mưu toan đổi mới
trong nền tiểu thuyết hiện đại (V.
Donhievorov & M. Cudonetxov), Cuộc tìm
tòi vô tận (A.G. Botsarov), Số phận của
tiểu thuyết (nhiều tác giả - NXB Tác phẩm
mới, H. 1983) Sự sinh thành và biến hóa
của thể loại tiểu thuyết đang thu hút sự
quan tâm của công chúng. Điều đó có nghĩa
là, Thi pháp học thể loại vẫn luôn giữ được
một tầm quan trọng trong nghiên cứu văn
chương đương đại.
2. Khuynh hướng Thi pháp học
thể loại ở Việt Nam
Ở Việt Nam thời trung đại, dường như
không có công trình nào chuyên nghiên
cứu Thi pháp học thể loại. Quan điểm Thi
pháp học thể loại ở Việt Nam chủ yếu ảnh
hưởng từ Trung Quốc. Các nhà Nho Việt
Nam sử dụng các quy tắc thi luật từ Trung
Quốc để thẩm bình tác phẩm văn chương.
Ta có thể kể đến một số quan niệm về thơ
của Lý Tử Tấn, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Kiều, Nguyễn
Cư Trinh, Trịnh Sâm, Phan Huy Chú,
Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu, Nhữ
Bá Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn
Công Trứ, Miên Thẩm Đáng kể nhất là
những lời bàn luận về thơ trong các tập:
Vân đài loại ngữ (Lê Quý Đôn), Nam sơn
tùng thoại (Nguyễn Đức Đạt) Những
quan niệm về văn chương thường được
phát biểu tản mạn qua các bài tựa sách, thơ
phú Chẳng hạn, trong Cúc Hiên văn tập,
ta bắt gặp một vài quan niệm của Lê Đình
Diên về thể loại văn chương nghệ thuật:
“Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự
hỗ trợ của thơ () Sự phân biệt của thanh
và thơ, chỉ riêng người hiểu sâu về thi học
và nhạc học mới biết được”. Trong khi các
nhà Nho đề cao thơ Đường luật thì Phạm
Đình Toái đề cao thể lục bát: “Thể thất
ngôn thì có hình thức đối xứng nhau, thể
lục bát thì có vẻ quanh co uyển chuyển
() chưa có ai phân tích thể cách của tác
phẩm lục bát để nêu lên cách kết cấu khéo
léo của người xưa, đồng thời làm cho tính
chất tinh xảo của quốc âm ta được nổi bật”.
Trong các bài tựa sách và thơ của mình,
Cao Bá Quát có đề cao thuyết tính linh.
Nhiều nhà Nho Việt Nam đã ủng hộ thuyết
tính linh bằng những cuộc cởi trói trong
sáng tác của mình. Điều đó cho thấy, vào
cuối thế kỷ XIX, thơ ca Việt Nam đã chuẩn
bị cho cuộc chuyển đổi sang thi pháp mới.
Cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam có tựa
đề “thi pháp” là Thi pháp nhập môn (Bàn
về thơ Annamite) của Thế Tải, Trương
Minh Ký (nhà in thương mãi Rey, Saigon,
1898). Tác phẩm này dạy luật thơ thất
ngôn qua những bài miêu tả các sự vật hiện
tượng trong thiên nhiên có kèm tranh vẽ.
Năm 1932, nhà in Bùi Văn Nhẫn ở Bến Tre
cũng xuất bản cuốn sách Thi pháp diễn
giải: chỉ phép tắc làm thơ, truyện, ngâm,
phú Ngoài ra, trước 1945, còn có nhiều
công trình khác cũng đề cập đến luật thơ
trung đại như: Việt Hán văn khảo (Phan Kế
Bính), Quốc văn cụ thể (Bùi Kỷ), Việt Nam
văn học (Ngô Tất Tố), Văn học Việt Nam
(Dương Quảng Hàm) Trong cuốn
17
Chương Dân thi thoại (1936), Phan Khôi
có bàn về phép làm thơ: cú pháp, dụng
điển, các thể phú, tỉ, hứng Ngoài ra, ông
còn so sánh những chỗ khác nhau giữa thi
luật thơ Việt Nam và Trung Quốc. Bên
cạnh những công trình bàn về luật thơ cổ
điển, còn có một số chuyên luận bàn về
luật thơ mới. Tiêu biểu như: Khảo luận
luật thơ mới (1940) của Lam Giang, Việt
Nam thi ca luận (1942) và Nghệ thuật thi
ca (1945) của Lương Đức Thiệp
Trong nửa đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam
xuất hiện khá nhiều công trình lý luận về
tiểu thuyết hiện đại. Phạm Quỳnh có loạt
bài Bàn về tiểu thuyết đăng trên báo Nam
Phong năm 1921, sau này, được in lại trong
tập Thượng Chi văn tập (1943). Trong Phê
bình và cảo luận (1933), Thiếu Sơn có
dành một mục bàn về tiểu thuyết. Thạch
Lam tham gia tranh luận về chức năng của
tiểu thuyết. Những bài này đăng trên báo
Ngày nay, Chủ nhật trong các năm 1939 -
1940, được in lại trong tập Theo giòng
(1962). Vũ Bằng cũng có nhiều bài bàn về
thể loại tiểu thuyết đăng trên báo Trung -
Bắc chủ nhật, in lại trong chuyên luận
Khảo về tiểu thuyết (1955). Nhưng có lẽ,
công trình khảo cứu đồ sộ nhất về văn xuôi
là Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan.
Tác phẩm được in lần đầu năm 1942, gồm
4 tập, có nhiều trang lí luận về thể loại tiểu
thuyết. Ngoài những công trình này, còn có
nhiều bài viết khác bàn về các thể loại văn
chương đăng rải rác trên các báo
Trong giai đoạn 1955 - 1975, ở miền
Nam, công việc nghiên cứu thể loại vẫn
được tiếp tục. Về luật thơ cổ điển, Diên
Hương có hai cuốn sách là Thi pháp (1958
- 1960) và Phép làm thơ (1963). Về thơ
hiện đại, năm 1956, NXB Lạc Việt công bố
tập tiểu luận Tìm hiểu thơ tự do (nhiều tác
giả). Năm 1965, NXB Sáng tạo ra mắt tập
phê bình Thảo luận về văn nghệ tiền chiến,
về nhân vật trong tiểu thuyết, về thơ
Nhưng nếu nói đến những công trình lý
luận thể loại có tính học thuật cao thì phải
kể ra: Nguyên tắc sáng tác thơ ca (Vũ Văn
Thanh, 1959), Luật thơ mới (Minh Huy,
1961), Quan niệm và sáng tác thơ (Đoàn
Thêm, 1962), Thi ca và tư tưởng (Bùi
Giáng, 1969), Từ thơ Mới đến thơ Tự do
(Bằng Giang, 1969), Thơ là gì? (Đặng
Tiến, 1973), Kỹ thuật sáng tác thơ (Trương
Linh Tử)
Thể loại tiểu thuyết cũng được đầu tư
nghiên cứu, tiêu biểu là các chuyên luận:
Tiểu thuyết hiện đại (Tràng Thiên, 1963),
Viết và đọc tiểu thuyết (Nhất Linh viết năm
1960, in năm 1969), Xây dựng tác phẩm
tiểu thuyết (Nguyễn Văn Trung, 1972), Văn
học và tiểu thuyết (Doãn Quốc Sỹ, 1972).
Về các bài báo bàn về tiểu thuyết, có:
Truyện và thơ trong tiểu thuyết của Michel
Butor (Hoàng Thái Linh, 1961), Hiện hữu
của tiểu thuyết (Lê Tuyên, 1961), Tiểu
thuyết hiện sinh là gì ? (Đỗ Ngọc, 1972),
Nghệ thuật và bản chất của tiểu t