Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được mệnh danh là “thiên cổ kỳ bút”
(Vũ Khâm Lân), đánh dấu một bước phát triển cao của loại hình văn xuôi tự sự
chữ Hán trong nền văn học dân tộc, là quyển truyện truyền kỳ đầu tiên và hay
nhất trong văn học viết của ta. Thế giới nhân vật trong tập hợp 20 đoản thiên tiểu
thuyết truyền kỳ này có thể được đánh giá như một tín hiệu, một loại “mã” nghệ
thuật đầy giá trị trong việc khám phá nhiều vấn đề xung quanh tác phẩm.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thi pháp nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năm học 2009 – 2010
259
THI PHÁP NHÂN VẬT TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC (NGUYỄN DỮ)
Nguyễn Ngọc Đoan Trang
(SV năm 2, Khoa Ngữ văn)
GVHD: PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được mệnh danh là “thiên cổ kỳ bút”
(Vũ Khâm Lân), đánh dấu một bước phát triển cao của loại hình văn xuôi tự sự
chữ Hán trong nền văn học dân tộc, là quyển truyện truyền kỳ đầu tiên và hay
nhất trong văn học viết của ta. Thế giới nhân vật trong tập hợp 20 đoản thiên tiểu
thuyết truyền kỳ này có thể được đánh giá như một tín hiệu, một loại “mã” nghệ
thuật đầy giá trị trong việc khám phá nhiều vấn đề xung quanh tác phẩm.
1. Hệ thống kiểu nhân vật với vấn đề phản ánh hiện thực và “cái nhìn” của
tác giả
1.1. Nhân vật xấu xa, điển hình sắc sảo cho hiện trạng xã hội đương thời
Thế kỷ XVI - XVII, chế độ phong kiến trung ương tập quyền bắt đầu suy
thoái. Là một trí thức tiến bộ, yêu nước, một sĩ phu có trách nhiệm, Nguyễn Dữ
đã không hề kiêng dè, khuất phục trước bất cứ một thế lực tàn bạo, xấu xa nào,
bằng ngòi bút của mình cất lên tiếng nói phản kháng của muôn dân. Những nhân
vật loại này có thể kể đến: bọn thống trị suy đồi (vua chúa, quan lại), cho thấy
tầng lớp thống trị đã mất đi vai trò đại diện ưu tú cho tinh thần và phẩm chất dân
tộc như ở giai đoạn trước; bọn Nho sinh hư hỏng, chìm đắm trong tình ái; bọn sư
sãi giả dối, núp dưới mái chùa làm điều xằng bậy (sư Vô Kỷ, mấy tên hộ pháp);
bọn lái buôn, phú thương lừa đảo, háo sắc.
Đối với chúng, thái độ Nguyễn Dữ rất rạch ròi: đả kích, phê phán kịch liệt,
có khi trực tiếp qua lời bàn bình, có khi để những nhân vật phán xét về nhau hoặc
cho thế lực trời đất trừng trị. Nhưng đồng thời, ta cũng thấy cách giải quyết vấn
đề còn lúng túng, dè dặt, bế tắc của Nguyễn Dữ (sự bất lực của những thân phận
bé nhỏ, sự trừng phạt được tạo ra ở thế giới khác). Điều này cho thấy hạn chế của
tác giả trên con đường trừng ác khuyến thiện của mình. Tuy nhiên, đó cũng là
hạn chế của lịch sử, không thể phủ nhận những đóng góp của Nguyễn Dữ trong
việc khắc họa nên những nhân vật xấu xa mang tính chân thật, quan điểm thân
dân, sức phê phán mạnh mẽ.
1.2. Nhân vật đẹp đẽ – ý thức chống đối các thế lực xấu xa
Nếu như nhân vật xấu xa xuất hiện trong 16/20 truyện thì nhân vật đẹp đẽ
chỉ xuất hiện trong 13/20 truyện. Nhiều truyện có nhân vật xấu xa nhưng không
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
260
có người đứng ra trừng trị hoặc trực tiếp chống đối. Điều đó cho thấy thế lực xấu
xa vẫn đầy rẫy, còn những người có ý thức chống đối, lật đổ chúng thì chỉ là
những đại diện ít ỏi và khả năng có hạn.
Bảng tổng hợp các mức độ đấu tranh của kiểu nhân vật khẳng khái
+ Ý thức
+ Khả năng - Ý thức - Khả năng
Phép thuật Ngôn biện Hành động
Sư Pháp Vân
(Truyện nghiệp
oan của Đào thị)
Hồ Tôn Thốc (Câu
chuyện ở đền Hạng
vương)
Vị đạo sĩ (Truyện
cây gạo)
Hồ tinh, Viên tinh
(Truyện bữa tiệc
đêm ở Đà giang)
Trịnh Thái
Thú
(Truyện
đối tụng ở
Long
cung)
Văn Tư Lập
(Truyện cái
chùa hoang
ở Đông
Triều) Vị đạo sĩ (Truyện
yêu quái ở Xương
Giang)
Văn Dĩ Thành
(Truyện tướng Dạ
xoa)
Ngô Tử Văn
(Truyện chức
phán sự đền
Tản Viên)
(Dấu “+” biểu thị sự “có”, dấu “-” biểu thị sự “thiếu”)
Lại có những nhân vật ẩn dật, thể hiện thái độ bất hợp tác với giai cấp thống
trị suy tàn. Họ chính là hình bóng của tác giả, của tầng lớp Nho sĩ chân chính
đương thời, được tác giả ký thác tâm sự, hoài bão, nỗi lòng băn khoăn, trăn trở
của mình. Kết quả của mối mâu thuẫn này là Từ Thức mang một bi kịch của kẻ sĩ
không chốn nương thân, lão tiều núi Na mãi ẩn mình nơi cô liêu quạnh tịch. Tuy
thái độ này cho thấy sự bất lực của tác giả trước thời cuộc, nhưng những nhân vật
này lại là một vũ khí đấu tranh sắc mạnh, nói lên tâm huyết đáng quý của nhà văn
với đời.
1.2.1. Nhân vật đa tình – ý thức giải phóng cá tính trong tình yêu đôi
lứa
Có 7/20 truyện mô tả tình yêu đôi lứa với sự xuất hiện của những nhân vật
đa tình *. Đây là kiểu nhân vật có tính chất phức tạp, vừa đáng phê phán, nhưng
vừa tiêu biểu cho ý thức giải phóng cá tính, khát khao tình yêu tự do. Các nhân
vật đa tình thường nảy sinh tình yêu từ những rung cảm ban đầu và chủ động đến
với nhau, không kể đến thân phận (nam thì là lái buôn, nho sinh, quan, sư, nữ
thì là hồn ma, yêu tinh, danh kỹ, cả những cô con gái nhà quan nền nếp và tiên
nữ động lòng phàm nữa). Quả không sai khi nói rằng: “Trong Truyền kỳ mạn lục,
* Truyện cây gạo, Truyện kỳ ngộ ở trại Tây, Truyện nghiệp oan của Đào thị, Truyện Từ Thức lấy vợ tiên,
Truyện yêu quái ở Xương Giang, Truyện nàng Túy Tiêu, Truyện Lệ Nương.
Năm học 2009 – 2010
261
những câu chuyện tình đã làm xôn xao cả cõi trần thế, cả chốn thủy cung và cả
nơi thiên giới!”
Khi miêu tả những nhân vật đa tình với những cuộc tình đắm say, Nguyễn
Dữ đã vướng phải mối mâu thuẫn trong tư tưởng. Một mặt, nhà văn đã biểu lộ
một trái tim nhân đạo sâu sắc và thái độ táo bạo. Nhưng mặt khác, những lời bình
luận cuối truyện lại tỏ ra khá nghiêm khắc, đứng trên lập trường của nhà Nho
chính thống, bảo thủ. Lý trí nhà Nho luôn muốn kìm hãm trái tim nhân đạo của
nhà văn. Nhưng dù sao, kiểu nhân vật này cũng mang lại một luồng gió tươi mới
hơn giữa cái ngột ngạt, bưng bít của xã hội phong kiến những thế kỷ suy tàn. Đây
là một giá trị tiến bộ của tác phẩm. Nó cũng cho thấy sự dũng cảm, tấm lòng
nhân đạo nồng hậu của tác giả.
1.2.2. Nhân vật nữ chính – tấm gương phản chiếu những ràng buộc của
thời đại
Có 13/20 truyện xuất hiện hình ảnh người phụ nữ (65%). Trong đó có 6
nhân vật nữ trung tâm (bên cạnh 9 nhân vật nam trung tâm*). Như vậy, số lượng
nhân vật nam trung tâm nhiều gấp 1.5 lần nhân vật nữ trung tâm: một mặt biểu
hiện sự khập khiễng âm (nữ) dương (nam), một mặt lại cho thấy quan điểm tiến
bộ của tác giả thể hiện qua sự ưu ái đối với người phụ nữ (1.5 chưa phải là sự
chênh lệch quá lớn). Dẫu ít chiếm vị trí trung tâm bằng các nhân vật nam nhưng
các nhân vật nữ vẫn khẳng định được vị trí của mình trong sáng tác của Nguyễn
Dữ.
Bảng thống kê các nhân vật nữ chính trong tác phẩm
TT Truyện Nhân vật nữ Thân phận
Thái
độ tác
giả
1 Người nghĩa phụ Khoái Châu Nhị Khanh Con gái nhà quan +
2 Cây gạo Nhị Khanh Hồn ma cô gái trẻ _
4 Kỳ ngộ ở trại Tây Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương
Tinh cây đào và cây
liễu _
5 Nghiệp oan của
Đào thị Đào Hàn Than Danh kỹ _
6 Từ Thức lấy vợ tiên Giáng Hương Tiên nữ 0
* 9 nhân vật nam trung tâm trong các truyện: Câu chuyện ở đền Hạng vương, Truyện cây gạo, Truyện gã
trà đồng giáng sinh, Truyện kỳ ngộ ở trại Tây, Truyện chức phán sự đền Tản Viên, Truyện Từ Thức lấy
vợ tiên, Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na, Truyện Lý tướng quân, Truyện tướng Dạ xoa.
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
262
7 Yêu quái ở Xương Giang Thị Nghi
Con gái lái buôn họ
Hồ, vì nghèo bị bán
vào Phạm gia
_
8 Nàng Túy Tiêu Túy Tiêu Ca nữ _
9 Người con gái Nam
Xương Vũ Thị Thiết Con gái nhà nề nếp +
10 Lệ Nương Lệ Nương
Con gái nhà nề nếp,
cháu họ ngoại Trần
Khát Chân
+
11 Cuộc nói chuyện
thơ ở Kim Hoa Ngô Chi Lan
Nội trợ hiền, hay
thơ, được vua giao
cho dạy cung nữ
+
(Nhân vật nữ trung tâm, “+” khẳng định, “–” phủ định, “0” không thể hiện rõ thái độ)
Cuộc đời của phần lớn các nhân vật nữ đều không trọn vẹn. Cái chết đeo
đuổi hầu hết các số phận này. Họ không làm chủ được cuộc đời mình mà như
những con tốt trong xã hội đầy phong ba. Nỗi bất hạnh cao nhất là không thực
hiện được thiên chức phụ nữ của mình, thiên chức ấy bị hủy hoại, triệt tiêu bởi
những tác động xã hội. Qua những nhân vật nữ bị những sang chấn về mặt tinh
thần, mức tố cáo xã hội của những trang văn Nguyễn Dữ đạt hiệu quả cao hơn.
Truyện viết về người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục được xây dựng trên nỗi ám
ảnh về cái tàn lụi, tan rã.
2. Thủ pháp xây dựng nhân vật
2.1. Nhân vật người kể chuyện – sự tổng hòa hai loại hình tác giả
Trong truyện truyền kỳ, lời kể của tác giả có thể chia làm hai loại: lời trần
thuật và lời bàn (bình) cuối truyện. Mỗi loại lời kể tương ứng với một tư cách tác
giả. Một là người kể chuyện, một là người bình luận về mặt đạo đức hoặc nghệ
thuật có quan điểm xác định. Điều này cho thấy ảnh hưởng của bút pháp viết sử
và sử bình đối với văn học, ý thức sáng tác và ý thức phê bình không tách rời
nhau. Nhà văn chưa tách được phê bình ra khỏi sáng tác và cũng chưa bao hàm
phê bình vào lời trần thuật. Vì vậy, trong lời dẫn dắt truyện, đa số là kiểu câu trần
thuật, còn lời bình cuối truyện mới chính là nơi thể hiện tập trung thái độ, quan
điểm, lập trường tác giả. Ở đó, tuy ngắn gọn, nhưng ta thấy được cái gọi là “ý
niệm về một tính cách mới, độc đáo”.
Qua lời bình, có thể thấy rõ một con người Nho gia chính thống - Tống Nho
khắc nghiệt, thể hiện qua khuynh hướng khuyến thiện, trừng ác, thái độ yêu ghét
rạch ròi. Bên cạnh đó, còn là một con người tuy chịu ảnh hưởng đạo Phật và tư
Năm học 2009 – 2010
263
tưởng Lão Trang, nhưng vẫn không chìm đắm trong tôn giáo, trong những cái kỳ
ảo mà mình tạo ra, ngược lại, còn rất hiện thực, có tình có lý.
2.2. Các phương thức xây dựng nhân vật
2.2.1. “Phi nhân” hóa thân phận nhân vật
“Phi nhân” - hình thức “phi nhân tính” của nhân vật: phóng đại, cách điệu
áp dụng trên tâm lý, tính cách của một loại người nào đấy (Từ điển thuật ngữ văn
học) - ở đây dùng với ý nghĩa: làm cho không giống người hoặc không phải
người bình thường, áp dụng trên thân phận và diện mạo.
1) Vật hóa (động vật hóa hoặc thực vật hóa): vừa ẩn ngụ cho khát vọng tình
yêu tự do (Truyện kỳ ngộ ở trại Tây) và tinh thần phản kháng (Truyện bữa tiệc
đêm ở Đà Giang), vừa cho thấy tín ngưỡng bản địa của người Việt: thờ linh vật.
2) Thần tiên hóa: khoác cho nhân vật thân phận của thần linh trên tiên giới,
như người hóa tiên, tiên giáng trần hoặc hóa kiếp làm người Những nhân vật
này nhuốm đầy màu sắc Lão – Trang, nhưng trên hết là thể hiện mơ ước của
nhân dân về cái kết tốt đẹp của những người có nhân cách cao đẹp, đồng thời
cũng thể hiện niềm tin vào sự phù trợ của thần linh.
3) Thần ma hóa: khoác cho nhân vật thân phận của thần linh dưới địa phủ
(Thần Thuồng Luồng, mấy tên hộ pháp, Thủy thần), hoặc hồn ma hóa thành yêu
tinh (yêu cây gạo, yêu quái cướp đền Thổ thần), hoặc hồn ma người chết hiện
hình (Hạng vương, Lệ Nương, Ngô Chi Lan).
Thực chất thì vật, thần, ma hay tiên cũng chỉ là lớp vỏ gián tiếp phản ánh
những nét tính cách, số phận, khát vọng hay hành động của con người trong hiện
thực.
2.2.2. “Phi thực” hóa hành động và mối quan hệ của các nhân vật
“Phi thực” hóa là phương thức tạo dựng nên hành động và những mối quan
hệ vốn không thể tồn tại trong thế giới thực của con người. Ví dụ về hành động
“phi thực” hóa: Hồ Tôn Thốc tranh biện với hồn ma Hạng vương (Câu chuyện ở
đền Hạng vương), Trịnh Thái thú xuống Long cung kiện Thần Thuồng Luồng
(Truyện đối tụng ở Long cung), Phạm Tử Hư “du thiên tào” (Truyện Phạm Tử
Hư lên chơi thiên tào), Văn Dĩ Thành thuyết lý với chúng quỷ (Truyện tướng Dạ
xoa), nam phàm du tiên (Truyện Từ Thức lấy vợ tiên) Những hành động đó
được miêu tả như một sự phi thường, thể hiện ước mơ về sự chiến thắng của
chính nghĩa, về khả năng đặc biệt dành cho những người sống có tình nghĩa, khí
phách. Những mối quan hệ “phi thực” hóa được thể hiện nhiều nhất ở những
truyện diễm tình: người kết duyên cùng thần, ma (Truyện cây gạo, Truyện kỳ ngộ
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
264
ở trại Tây, Truyện yêu quái ở Xương Giang), người kết duyên cùng tiên (Truyện
Từ Thức lấy vợ tiên), người thống lĩnh chúng quỷ (Truyện tướng Dạ xoa)
2.2.3. Điển hình hóa tính cách nhân vật
Nhiều nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục đã đạt đến trình độ điển hình cao
về tính cách. Nhà nghiên cứu Soviet Marian Tkatsov khi giới thiệu tác phẩm này
ở Liên Xô trước đây đã viết: Nguyễn Dữ “đã suy nghĩ có tính cách phạm trù về
thời đại mình” qua hàng loạt những “hình tượng điển hình”. Những tên vua chúa,
những tướng quân họ Bạch, quan Trụ quốc họ Thân, Thần Thuồng Luồng điển
hình cho tính cách gian tham, xảo quyệt, tàn bạo, dâm ác của thế lực thống trị.
Những Văn Tư Lập, Văn Dĩ Thành, Ngô Tử Văn đại diện cho những con
người khẳng khái, cương trực, chính nghĩa, không chịu khuất phục trước cái ác,
cái xấu xa, không kiêng sợ cái chết. Những người nghĩa phụ như Nhị Khanh,
những Vũ Thị Thiết, Lệ Nương điển hình cho phẩm chất thủy chung, trinh tiết
của người phụ nữ Việt Nam v.v Giữa lúc mà sự phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam còn đang bước đi những bước đầu tiên, thì việc xây dựng được những nhân
vật điển hình về tính cách như vậy là thành tựu khẳng định tài năng của Nguyễn
Dữ.
2.2.4. “Thi” hóa nội tâm nhân vật
Những bài thơ chữ Hán trong tác phẩm xuất hiện như những sáng tác, ứng
đối của nhân vật. Phần lớn các nhân vật trong truyện đều có khả năng làm thơ để
trang trải nỗi lòng, thù tạc với nhau, tạo nên nét đặc trưng riêng hấp dẫn, thú vị.
Truyền kỳ mạn lục nói riêng và truyền kỳ trung đại nói chung không có những
đoạn miêu tả diễn biến hoặc đấu tranh trong nội tâm nhân vật. Để giãi bày tâm
trạng mình, nhân vật thường chỉ làm thơ và xem thơ là hình thức quan trọng để
thể hiện mình. Những lời lẽ, ý tứ trong thơ thể hiện được nỗi lòng, suy tư, quan
niệm của nhân vật. Đưa thơ vào văn xuôi, tác giả đã mở rộng khả năng phản
ánh của tác phẩm trong việc miêu tả thế giới tâm hồn con người. Nó hoàn toàn
khác với những truyện kiểu Tấm Cám, mà ở đó, thơ chỉ đơn thuần là cái mốc
đánh dấu sự kiện. Tâm trạng con người trong những bài thơ trong các truyện nêu
trên của Nguyễn Dữ có những xạ ảnh đây đó trong thơ Hồ Xuân Hương hay
Nguyễn Gia Thiều sau này.
2.3. “Phong vị nước Nam” – tính dân tộc hể hiện qua thế giới nhân vật
Trong Truyền kỳ mạn lục, người đọc sẽ bắt gặp những cái tên, những cách
xưng hô rất đặc trưng cho văn hóa giao tiếp của người Việt (họ Lý, Trịnh, Ngô,
Phạm..., cùng lắm là Văn, Dư của nam, cách gọi Thị Nghi, Vũ Thị Thiết đối
Năm học 2009 – 2010
265
với nữ), khác hẳn với truyền kỳ Trung Quốc (họ Lệnh Hồ, họ Toàn, họ Giả, họ
Tiết của nam, cách gọi Ái Ái, Thúy Thúy đối với nữ).
Về xuất thân của nhân vật, Truyền kỳ mạn lục có sự hạn chế nhất định đối
với những nhân vật thương nhân, ca kỹ. Nguyên nhân do quá trình đô thị hóa ở
Việt Nam còn chậm chạp và non yếu (ca kỹ, thương nhân là sản phẩm của đời
sống đô thị), nhưng quan trọng hơn là trong tín ngưỡng dân gian, người Việt thờ
Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh được tôn vào hàng “tứ bất tử”). Trong khi đó những nhân
vật lịch sử lại xuất hiện với mật độ dày đặc, dù dưới hình thức nào đi nữa cũng
cho thấy một cảm hứng lịch sử dạt dào trong quá trình sáng tác của nhà văn.
Về tính cách và phẩm chất của nhân vật người phụ nữ, Nguyễn Dữ xuất
phát từ quan điểm dân gian truyền thống: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, “Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn”, nhấn mạnh nhiều hơn đến phẩm chất, đức tính, đặc biệt là
số phận người phụ nữ trong thời buổi rối ren và làm nổi bật lên phẩm chất thủy
chung, trinh liệt (Lệ Nương, Vũ Thị Thiết), khác với truyền kỳ Trung Hoa
thường có ý tô đậm vẻ đẹp bên ngoài, cái đẹp hoa ghen nguyệt thẹn, những khả
năng khác thường.
Cảm hứng về dân tộc nồng đượm khi Nguyễn Dữ dựa vào nhân vật trong
kho tàng truyện kể dân gian của dân tộc để sáng tạo nên những nhân vật của tác
phẩm văn học viết (Vũ Nương - Truyện người con gái Nam Xương có từ Vợ
chàng Trương, Từ Thức - Từ Thức lấy vợ tiên có từ Sự tích động Từ Thức, mô típ
nữ tiên giáng trần, nam phàm du tiên, người chết hóa hồn ma, hóa tiên, người
được tiên phù trợ). Truyện yêu quái ở Xương Giang có tình tiết khi đào mộ Thị
Nghi lên chỉ thấy mấy hòn máu tươi khiến người đọc liên tưởng đến truyện Tấm
Cám với cái chết của con Bống, những hòn máu tươi là sự uất kết nỗi oan uổng
mà Thị Nghi phải chịu đựng lúc sống.
3. Thi pháp nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục qua cái nhìn đối sánh
3.1. Với các tác phẩm truyền kỳ trung đại
Những điểm khác nhau giữa Truyền kỳ mạn lục và Thánh Tông di thảo: cả
hai đều khai thác nhân vật trong những truyện kể dân gian nhưng tần số nhiều
hơn ở Thánh Tông di thảo; lời bình và nhân vật người kể chuyện trong Truyền kỳ
mạn lục là của Nguyễn Dữ, còn trong Thánh Tông di thảo thì ký tên Sơn Nam
Thúc và xuất hiện nhân vật người kể chuyện “ta”; Thánh Tông di thảo có mối
tương quan giữa cốt truyện và nhân vật không đều bằng Truyền kỳ mạn lục.
Những điểm khác nhau giữa Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả:
Truyền kỳ tân phả không còn lời bình cuối truyện. Đến thế kỷ XVIII, tác giả phê
bình tách hẳn tác giả sáng tác, nhưng chưa có sự phát triển về nhân vật người kể
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
266
chuyện, nên tính cách người kể rất mờ nhạt; ở Truyền kỳ tân phả thơ ca quá
nhiều nhưng nội tâm nhân vật lại ít được chú ý hơn, do đó chủ yếu là thơ thù tạc.
3.2. Với Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu – Trung Quốc) và Kim ngao tân
thoại (Kim Si Seup – Hàn Quốc) qua hai loại truyện chính: loại diễm tình và
loại kỳ quái
Thuộc loại truyện diễm tình (viết về tình yêu ly – hợp của các nam nữ nhân
vật chính), Kim Ngao tân thoại có 2/5 truyện, Tiễn đăng tân thoại có 8/20 truyện,
Truyền kỳ mạn lục có 5/20 truyện. Cả ba tập truyện đều có những điểm chung về:
thân phận, dung mạo, tài năng của nam nữ nhân vật chính; kết cấu (nữ chủ động
kết duyên – ly tán – cả hai hóa ma quỷ để giải mối hận tình yêu chưa trọn vẹn);
vai trò nhân vật phụ. Điểm khác biệt của mỗi tập truyện gắn liền với đặc trưng
văn hóa – xã hội của từng quốc gia. Đặc biệt, trong Truyền kỳ mạn lục có dấu
hiệu của loại diễm tình kết hợp với tiểu thuyết lịch sử - đây là điểm biểu lộ bề
ngoài ý đồ sáng tác của tác giả Việt Nam.
Loại kỳ quái (miêu tả nhân vật trong bối cảnh thế giới khác): Kim Ngao có
3/5 truyện, Tiễn đăng có 13/20 truyện, Truyền kỳ có 15/20 truyện. Cả ba tập
truyện đều có những điểm chung về: xuất thân của nhân vật chính, Long vương
trọng đãi nhân vật chính, Long vương và thuộc hạ là nhân vật phản diện. Còn
khác nhau về: nguyên nhân xuống Long cung, vai trò của nhân vật dẫn đường,
bút pháp miêu tả thế giới Long cung (lý tưởng hóa, thần thánh hóa hay dân gian
hóa).
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn học viết “mở đầu một cách đích thực
cho phong cách nghệ thuật phản ánh những cái bình thường thông tục, phản ánh
con người trần thế, có tính hiện thực”. Đây chính là khuynh hướng văn học có
tính nhân đạo tích cực. Nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục xuất hiện như những
sinh thể sống động vượt mọi giới hạn thời – không: đi lại tự do giữa cõi trời đất,
“du thiên tào”, “nhập địa phủ”, từ quá khứ đến hiện tại, lung linh thoắt ẩn thoắt
hiện, biến hóa khôn lường khiến cho không khí tập truyện phảng phất, lung linh
một sự kỳ ảo, dị thường, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt. Những hồn ma, cây cỏ,
con vật với những khả năng dị thường lại rất điển hình cho những con người
bằng xương bằng thịt của cả một thời đại. Đó là phương thức để nhà văn gửi gắm
tâm sự, thái độ, nguyện vọng của mình một cách kín đáo trước búa rìu phong
kiến tàn bạo và vòng kiềng Nho giáo khắc nghiệt. Lặn vào thế giới nhân vật kỳ
ảo, người đọc cảm tưởng như đang ở trong thế giới con người bằng xương bằng
thịt cách đây mấy thế kỷ vậy!