TÓM TẮT
Sử dụng các kiến thức điền dã các ngôi dinh thờ nữ thuỷ thần ở Phú Quốc: Dinh
Bà Dương Đông, Dinh Bà Hàm Ninh, Dinh Bà Ông Lang, Dinh Bà Cửa Cạn, bài viết đã
chỉ ra nhu cầu mãnh liệt của người dân trong tục thờ cúng các vị nữ thần được thờ ở các
Dinh Bà trên đảo, về sự đa dạng của văn hoá tộc người và sự đa dạng của văn hoá vùng
miền thể hiện trong tín ngưỡng thờ Bà ở các ngôi Dinh. Từ điểm nhìn đương đại, bài viết
đã chỉ ra sự vận động của tín ngưỡng thờ Bà ở các Dinh từ tục thờ bà Thủy của các cư dân
ngư nghiệp (trên đảo) và người đi biển (ở trên đảo và ở các vùng khác) đến tín ngưỡng thờ
Thánh Mẫu của các tầng lớp cư dân (trên đảo, trong nước và nước ngoài) với tư cách là
một hệ thống mở để có thể đáp ứng nhu cầu gửi gắm niềm tin của người dân trước những
biến đổi mau lẹ của đời sống hôm nay.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thờ nữ thần ở Phú Quốc: Từ tín ngưỡng thờ Bà Thuỷ đến tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014
5
THỜ NỮ THẦN Ở PHÚ QUỐC: TỪ TÍN NGƯỠNG
THỜ BÀ THUỶ ĐẾN TÍN NGƯỠNG THỜ THÁNH MẪU
TRẦN THỊ AN (*)
TÓM TẮT
Sử dụng các kiến thức điền dã các ngôi dinh thờ nữ thuỷ thần ở Phú Quốc: Dinh
Bà Dương Đông, Dinh Bà Hàm Ninh, Dinh Bà Ông Lang, Dinh Bà Cửa Cạn, bài viết đã
chỉ ra nhu cầu mãnh liệt của người dân trong tục thờ cúng các vị nữ thần được thờ ở các
Dinh Bà trên đảo, về sự đa dạng của văn hoá tộc người và sự đa dạng của văn hoá vùng
miền thể hiện trong tín ngưỡng thờ Bà ở các ngôi Dinh. Từ điểm nhìn đương đại, bài viết
đã chỉ ra sự vận động của tín ngưỡng thờ Bà ở các Dinh từ tục thờ bà Thủy của các cư dân
ngư nghiệp (trên đảo) và người đi biển (ở trên đảo và ở các vùng khác) đến tín ngưỡng thờ
Thánh Mẫu của các tầng lớp cư dân (trên đảo, trong nước và nước ngoài) với tư cách là
một hệ thống mở để có thể đáp ứng nhu cầu gửi gắm niềm tin của người dân trước những
biến đổi mau lẹ của đời sống hôm nay.
Từ khoá: tín ngưỡng, thờ cúng, nữ thần, thờ Thánh Mẫu
ABSTARCT
Based on countryside knowledge of temples with naiad worship in Phu Quoc such as:
Lady Duong Dong’s Temple, Lady Ham Ninh’s Temple, Lady Ong Lang’s Temple, Lady
Cua Can’s Temple, the article has shown the strong demand of the people in the practice
of worshipping goddesses at Ladies’ Temples on the island as well as the diversity of the
ethnic culture and the regional culture shown in goddess worshipping faiths at different
Ladies’ Temples. Based on the contemporary points of view, the article points out the
developments of the naiad worshipping beliefs at the temples from naiad worshipping
beliefs of the fishery residents (living on the island) and the seafarers (living on the island
and in other regions) to “Thanh Mau” worshipping beliefs of different classes of the
people (living on the island as well as in Vietnam and foreign countries) as an open system
which can meet the people’s needs of relying their faiths in facing the rapid change of
modern life.
Keywords: belief, worship, goddess, “Thanh Mau” worship
*Là một hòn đảo lớn nhất trong số 22
hòn đảo của huyện đảo Phú Quốc với diện
tích là 574 km² (toàn huyện đảo là 593,05
km²), đảo Phú Quốc là nơi có cảnh sắc
thiên nhiên đẹp, đ a hình đa dạng: có núi,
có sông, có suối và bao quanh tứ bề là biển.
Với đặc điểm này, Phú Quốc được coi là
một nơi trú ẩn an toàn, một nơi dừng chân
(*)PGS.TS, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
lí tưởng trên các chuyến hải hành hay
những chuyến tìm đất nên đã đón nhận
nhiều đợt di dân. Bên cạnh đó, do nhiều cơ
duyên trong l ch sử, đảo Phú Quốc cũng đã
là nơi dừng chân, nơi trú ngụ của một số
nhân vật l ch sử quan trọng. Những đặc
điểm đ a lý, l ch sử này khiến cho Phú
Quốc trở thành nơi hội tụ nhiều luồng văn
hóa và sự đan xen văn hoá của các cộng
đồng dân cư trong quá trình cộng cư và đã
6
làm nên nét đặc sắc của văn hoá nơi đây.
Bao quanh là biển, do vậy, để bám trụ
lại hòn đảo này, dù không hành nghề chài
lưới thì người dân nơi đây cũng phải
thường xuyên đối diện với biển; họ đương
nhiên phải thích ứng với biển để tồn tại,
phải nương vào biển để sống. Sự thích ứng
ấy dẫn đến sự gắn bó sâu sắc với vùng đất
đang sống; sự nương tựa đó dẫn đến một
lòng biết ơn và tình yêu với biển khơi. Nó
đã được chưng cất thành những biểu tượng
của đời sống tâm linh con người Phú Quốc.
Một trong những biểu hiện của tính đa sắc
thái văn hóa, tính thích ứng và nương tựa
vào biển cả của Phú Quốc là tín ngưỡng
thờ nữ thần, mà người dân ở đây quen gọi
là Bà và di tích thờ Bà được gọi là Dinh:
Dinh Bà.
1. VỀ HỆ THỐNG DINH BÀ Ở
ĐẢO PHÚ QUỐC
Đảo Phú Quốc có 4 ngôi Dinh Bà, đó
là: Dinh Bà Dương Đông (thờ Thủy Long
Thánh Mẫu) ở th trấn Dương Đông; Dinh
Bà Ông Lang (còn gọi là Dinh Bà Lớn
Tướng, thờ bà Lê Kim Đ nh) ở ấp Ông
Lang, xã Cửa Dương, Dinh Bà Hàm Ninh
(thờ Thiên Ya Na ở xã Hàm Ninh), Dinh
Bà Cửa Cạn (thờ bà Kim Giao) ở xã Cửa
Cạn. Phú Quốc có 5 khu dân cư chính thì
các di tích thờ Bà trên nằm ở 3 khu dân
cư/làng chài: th trấn Dương Đông (vốn là
một làng chài lớn của đảo), làng chài Hàm
Ninh và làng chài Cửa Cạn.
1.1. Dinh Bà Dương Đông
Nổi tiếng nhất đối với du khách là
Dinh Bà Dương Đông (nằm trên đường Võ
Th Sáu, Khu 1, Th trấn Dương Đông)
trông ra biển, dưới chân núi Dinh Cậu.
Dinh Bà Dương Đông thờ Thuỷ Long
Thánh Mẫu.
Dinh Bà Dương Đông được bài trí đơn
giản: từ ngoài đường vào, qua một cái sân
nhỏ có một bức bình phong là một gian thờ
Mẫu có tên là Thủy Long Thánh Mẫu cung.
Phía trong, không gian thờ cúng gồm một
gian thờ có ba ban: ban chính giữa thờ Mẫu
có bức đại tự: “Vạn cổ anh linh”, ban bên
phải thờ Tiền hiền, ban bên trái thờ Hậu
hiền. Ban thờ Mẫu được thiết kế gần giống
với điện thờ Tứ phủ gồm có phía trên thờ
Mẫu, và phía dưới là một khám nhỏ. Nhìn
vào cách bài trí này, có thể thấy ở đây sự
hội nhập giữa việc thờ Mẫu với tín ngưỡng
thờ các v khai canh (tiền hiền, hậu hiền) –
vốn là một bước đệm cho việc xây dựng
biểu tượng của tín ngưỡng thờ thành hoàng
từ Trung Bộ vào Nam Bộ. Bên trái của lối
vào gian thờ là một tủ quần áo của Mẫu do
người dân cúng Bà, tủ quần áo này giống
như tủ quần áo mà ta thấy ở đền thờ bà
Chúa Xứ (Châu Đốc, An Giang).
Về nhân vật được thờ, một số tài liệu
cho biết, Dinh thờ bà Kim Giao, công chúa
của vương quốc Khmer có công khai phá
đảo. Dinh Bà Dương Đông và Dinh Bà
Cửa Cạn đều cùng thờ Bà. Trong khi đó,
Trương Thanh Hùng lại cho rằng, dinh Bà
Dương Đông thờ Thủy Long Thánh Mẫu,
được gọi là Dinh Bà Ngoài để phân biệt
với Dinh Bà Trong thờ Kim Giao
1
. Điều
này cũng được xác nhận thêm bởi ch Tư,
người trông coi Dinh Bà Dương Đông
trong d p điền dã tháng 6/2013 của chúng
tôi. Ch Tư cho biết: Dinh Bà Dương Đông
thờ Thủy Long Thánh Mẫu, trong Dinh
hiện có bức cuốn thư đề Thủy Long Thánh
Mẫu cung khẳng đ nh đây là cung điện thờ
Thánh Mẫu. Hiện nay, bức cuốn thư được
trang trí rất đẹp nhưng một bức ảnh khác
(nguồn Internet, không rõ năm chụp) cho
thấy vào năm 1970, năm chữ này chỉ mới
được viết lên tường (phụ đề dưới cụm từ
trên là “Kỉ niệm tái thiết năm canh tuất
ngày 18-10-1970”). Bức ảnh này cho ta
7
biết ít nhất là việc đ nh danh “Thủy Long
Thánh Mẫu” đã có từ năm 1970. Hai bên
cửa ra vào của gian thờ Thánh Mẫu (cùng
với bức ảnh ghi năm tu sửa 1970) là đôi
câu đối:
Siêu tứ thủy dĩ vi vương công năng phối địa
Mại quần long nhi lập cực đức khả tham thiên
Có nghĩa là:
Vượt qua bốn bể làm vương, công sánh
cùng với Đất
Cao hơn cả đoàn rồng để lập ngôi cao, đức
lớn ngang Trời.
Đôi câu đối này đã dùng 2 chữ “Thủy”
và “Long” ở 2 vế để chỉ danh xưng Thủy
Long của Mẫu và dùng những lời tán tụng
để ca ngợi công đức sánh ngang Trời, Đất
của ngài. Điều này cho thấy người soạn đôi
câu đối đã bày tỏ lòng tôn kính bà Thủy
Long với tư cách là v vua biển mà công
đức được đánh giá ở mức tuyệt đối.
1.2. Dinh Bà Ông Lang
Cách th trấn Dương Đông 7 km về
phía Tây Bắc là một ngôi Dinh Bà Ông
Lang (ở ấp Ông Lang, xã Cửa Dương) là
một ngôi dinh nằm sát bờ biển phía Bắc
đảo. Nằm trong một khuôn viên rất rộng,
nhưng Dinh cũng chỉ mới có một gian thờ
nhỏ. Theo đại tự ghi ngay cửa vào Dinh
thờ, Dinh được dựng năm 1946, và mới
được tu sửa lại năm 2007 với kiến trúc rất
mới. Trong gian thờ chỉ có một ban thờ bà
Lê Kim Đ nh. Ngai thờ được bài trí bằng
một bức tượng bà mặc quần áo có màu sắc
rực rỡ và đeo vòng xuyến rất đẹp và bên
trái là bức chân dung Nguyễn Trung Trực.
Hai bên ban thờ là 2 dòng chữ đắp nổi theo
hàng dọc: “Anh hùng dân tộc” và “Trung
trinh liệt nữ”. Lối vào bên trái cũng có một
tủ quần áo Bà Lớn Tướng được người dân
cúng như ở Dinh Bà Dương Đông. Ngoài
sân, phía trông ra biển có hai pho tượng
thờ Quan Âm Nam Hải.
Về nhân vật được thờ, Dinh Bà Ông
Lang thờ bà Lê Kim Đ nh, tương truyền là
vợ Nguyễn Trung Trực. Bà cùng ông tham
gia chống quân Pháp những năm cuối đời
nên được dân gian tôn vinh là bà Lớn
Tướng (người kể cho tôi biết gọi như thế
bởi bà vừa là bà tướng, vừa là vợ ông lớn).
Cách đó khá xa, nằm ngay sát mé biển là
ngôi mộ của bà. Đường đi đến mộ bà tương
đối khó khăn, phải vượt qua một cánh đồng
cát trắng, chưa có đường ô tô, qua một cái
cầu nhỏ, đến mép biển thì mới đến mộ.
Mặc dù nằm giữa một vùng cát khá hoang
vu nhưng ngôi mộ của bà được xây khá
khang trang.
1.3. Dinh Bà Hàm Ninh
Ở làng chài Hàm Ninh có một ngôi
dinh được gọi là Dinh Bà Hàm Ninh. Khác
với hai ngôi dinh trên, Dinh Bà Hàm Ninh
không nằm sát biển mà nằm sâu trong xã.
Người dân ở đây kể lại là trước đây, ngôi
dinh nằm sát biển nhưng do sạt lở đã được
chuyển vào v trí hiện nay. Ông Vạn (65
tuổi ở tổ 13, ấp Rạch Hàm, xã Hàm Ninh)
và ch Phúc (47 tuổi, nhà ở ngay cạnh
Dinh) cho biết, khi ông Vạn về đây ở (cách
đây 40 năm) và khi ch Phúc còn nhỏ, ngôi
dinh đã được chuyển về đ a điểm này.
Dinh Bà Hàm Ninh có 2 gian thờ là
Dinh Ông Nam Hải và Dinh Bà Thuỷ; phía
ngoài sân là hai khám thờ nhỏ bên trái bên
phải kiểu như ban thờ Cô, thờ Cậu trong
tín ngưỡng Tứ phủ. Trong Dinh Ông Nam
Hải có một bộ xương cá Ông, trong Dinh
Bà Thủy có hai cung thờ, cung phía ngoài
chỉ có một bát hương và hai con hạc chầu
hai bên; cung trong thờ Bà, có một pho
tượng Bà khá nhỏ nhắn, cao chừng 30 cm.
Hai bên của ban thờ Bà có 2 chiếc thuyền
gỗ và một số sản vật biển như san hô. Phía
trái lối vào có một tủ quần áo cúng Bà, các
bộ quần áo ở đây bằng kích thước quần áo
8
của người bình thường dùng để treo và một
số bộ quần áo nhỏ để thay cho bà vào d p
lễ hội (tối 22, ngày 23/3 âm l ch).
Đặc biệt, ngay trước cửa vào gian thờ
bà Thủy là một tấm liễn nhỏ bằng gỗ,
chính giữa khắc chữ “Tâm”. Dòng lạc
khoản hai bên ghi là: Quang Tự, Quý Mão
niên, quý xuân nguyệt, cát đán, Hải Nam
tín phàm Hoàng Ứng Tinh, Khánh Vân,
Đắc Lan, Quách Viễn Phiên đồng kính
phụng (có nghĩa là: Ngày tốt đầu tháng Ba
năm Quý Mão, niên hiệu Quang Tự (1903),
Tín chủ là người phàm trần ở Hải Nam là
Hoàng Ứng Tinh, Hoàng Khánh Vân,
Hoàng Đắc Lan và Quách Viễn Phiên cùng
kính thờ). Đây là một thông tin hết sức
quan trọng. Thông tin này cho biết: đây là
tấm liễn do những người ở đảo Hải Nam
ghé lên bờ cúng. Có thể đây là những
người làm ăn trên biển (theo lời người dân
kể là Dinh Bà trước đây nằm sát bờ biển),
trên đường đi đã lên cúng ở Dinh Bà, do
được bà phù hộ nên đã trở lại lễ tạ. Nếu
đúng là như vậy thì có thể thấy rằng, Dinh
Bà Hàm Ninh đã nổi tiếng là một đ a chỉ
thiêng ít nhất vào cuối thế kỉ XIX.
Về đối tượng được thờ, Dinh Bà Hàm
Ninh thờ Ông Nam Hải (cá Ông) và thờ Bà
Thuỷ (Thuỷ Long Thánh Mẫu). Theo lời kể
của ông Vạn, Thủy Long Thánh Mẫu đây
là Thiên Ya Na được người dân Hàm Ninh
rước từ Khánh Hòa vào thờ. Ngày rước bà
là ngày 23/3, ngày Ông lụy cũng là ngày
23/3 nên đó là ngày lễ hội của Dinh.
1.4. Dinh Bà Cửa Cạn
Cách Dinh Bà Ông Lang chừng 5 km
về phía Tây Bắc, nằm ở hữu ngạn sông
Cửa Cạn, là một ngôi Dinh khác, được gọi
là Dinh Bà Cửa Cạn (thường được gọi là
Dinh Trong – để phân biệt với Dinh Ngoài
thờ Thủy Long Thánh Mẫu ở Dương
Đông). Dinh nằm ở cửa sông, cạnh vũng
nước sâu (dân đ a phương gọi là “búng”)
nên còn được gọi là Búng Dinh Bà.
Về nhân vật được thờ, các tài liệu
truyền ngôn cho biết, Dinh thờ Bà Kim
Giao, tương truyền là người Khơ Me, thuộc
dòng dõi vua Campuchia. Do vua b lật đổ
nên Bà lánh nạn sang đảo Phú Quốc. Khi
đi, Bà mang theo đàn trâu để khai phá đất
đai tìm đất làm ruộng. Tương truyền, Bà
Kim Giao lập trại bên bờ Búng, hiện vẫn
còn cánh đồng gọi là Đồng Bà và các dấu
vết cột được coi là cột buộc trâu của Bà
xưa kia. Người dân Phú Quốc có một niềm
tin thiêng liêng đối với Bà – với tư cách là
người khai khẩn hòn đảo này.
Nhìn một cách tổng thể 4 di tích Dinh
Bà ở đảo Phú Quốc, có thể bước đầu rút ra
một số nhận xét sau: việc hình thành tín
ngưỡng thờ Bà và lập Dinh để thờ là một
quá trình khá lâu dài, thể hiện trong đó
trước hết là nhu cầu về đời sống tâm linh
của người dân. Trong quá trình thích ứng
với vùng đất mới gồm một phức hệ đ a lý
rừng, núi, sông biển, các cư dân đảo đã có
một nỗ lực không ngừng để chung sống với
môi trường đ a lý-xã hội mới. Sự nỗ lực
thích nghi trong đời sống xã hội đã thể hiện
rõ trong đời sống tâm linh khi mà tín
ngưỡng được hình thành, được tin tưởng,
trở thành một động lực tinh thần vô giá cho
con người lạ lẫm trước vùng đất mới và
chơi vơi giữa biển khơi. Bên cạnh đó, tín
ngưỡng thờ Bà ở đảo Phú Quốc đã thể hiện
quá trình hội nhập không ngừng của các
chiều cạnh khác nhau của niềm tin, và đến
nay, đã hình thành một tín ngưỡng thờ Bà
trong các dinh, dù đã được đ nh v phần
nào nhưng vẫn là một hệ thống mở để đón
nhận những sắc thái mới của đời sống tâm
linh người dân.
9
2. CÁC LỚP VĂN HÓA TRONG
TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ Ở PHÚ QUỐC
Qua việc giới thiệu di tích của 4 ngôi
Dinh Bà ở trên, có thể thấy các lớp văn hoá
đan xen trong tín ngưỡng của người dân
Phú Quốc như sau:
2.1. Tín ngưỡng thờ thần phù hộ
ngư dân
Ở 4 ngôi Dinh Bà và mộ Bà Lớn
Tướng Lê Kim Đ nh, một bộ phận lớn
người đi lễ là ngư dân. Theo lời của người
dân mà chúng tôi có d p phỏng vấn trong
tháng 6/2013 (người hướng dẫn du l ch,
người lái xe ôm, những người trông coi tại
các di tích: Dinh Bà Dương Đông, Dinh
Cậu, Dinh Bà Hàm Ninh, Dinh Bà Ông
Lang, Đình thần Nguyễn Trung Trực) thì
hầu hết các chủ ghe, tàu đều gửi niềm tin
vào sự phù hộ của các v thần được thờ ở
các di tích trên. Các chủ ghe, tàu khi đi
đánh cá thì có thể không lên cầu cúng ở các
di tích trên vì ghe, tàu nào cũng đều có ban
thờ Quan Âm Nam Hải nhưng khi đi qua
họ đều bái vọng lên các di tích. Ông Võ
Vạn, thành viên Ban quản tr Hội Dinh Bà
Hàm Ninh cho biết: “Dân ở đây tin dữ lắm.
Vào ngày vía Bà, người dân Hàm Ninh dù
có đánh bắt xa bờ đến đâu cũng quay về
đến lễ Bà. Người dân trong xã từ nhỏ tới
lớn đều rất tin Dân ở đây làm nghề hạ
bạc, Ông Nam Hải độ cho đánh được nhiều
cá, ghe cộ chìm thì ông đưa vô bờ. Bà phù
hộ, độ cho cô bác ngư dân chài lưới, nghèo
khổ, không con cái, buôn bán, sức khỏe, ai
cầu gì được nấy” (Phỏng vấn ngày
5/6/2013). Trong Dinh Bà Hàm Ninh, như
đã nói ở trên, có một gian thờ Nam Hải;
trong sân ngôi Dinh Bà Ông Lang có 2 pho
tượng Quan Âm Nam Hải; các ngôi Dinh
Bà đều trông ra biển và tọa lạc ở ngay bờ
biển (trừ Dinh Bà Hàm Ninh do b sạt lở
nên chuyển sâu vào trong đảo). Câu đối ở
Dinh Bà Dương Đông (như đã nói ở trên)
đã thể hiện sự ca tụng của người dân đối
với một v vua của biển cả. Đôi câu đối ở
Dinh Cậu cũng thể hiện một cảm hứng
ngợi ca như thế: Phong điều vũ thuận dân
an lạc, Hải yến hà thanh thế thái bình,
D ch nghĩa là: Mưa thuận gió hòa, dân an
lạc, Sông yên biển lặng đời thái bình. Ước
muốn về mưa thuận gió hòa, về sông yên
biển lặng là ước muốn thường trực nhất
của cư dân biển, và họ đã tìm thấy nơi
nương tựa về mặt tinh thần ở những v thần
linh này.
Hơn nữa, trong 4 ngôi Dinh Bà ở đảo
Phú Quốc thì có 2 ngôi dinh có tên là Thủy
Long Thánh Mẫu, riêng Dinh Bà Hàm Ninh
lại có cung thờ ghi là Dinh Bà Thủy. Điều
này cho thấy lớp tín ngưỡng thờ thần phù hộ
ngư dân là rất rõ ở các Dinh Bà Phú Quốc.
2.2. Tín ngưỡng thờ người mở cõi
Trong các truyền thuyết của người dân
được lưu truyền trên các trang mạng, Dinh
Bà Dương Đông và Dinh Bà Cửa Cạn đều
thờ một v thần là Kim Giao, tương truyền
là người khai phá đảo Phú Quốc. Các
truyền thuyết về bà Kim Giao, như đã nói ở
trên, đều kể về một người có công khai
khẩn hòn đảo này và người dạy dân cách
làm ruộng ở đây. Hiện bà Kim Giao được
thờ ở dinh Cửa Cạn, nơi còn vết tích cánh
đồng bà khai hoang và hàng loạt cột buộc
trâu xưa kia. Còn Dinh Bà Dương Đông,
nơi hiện nay thờ Thủy Long Thánh Mẫu thì
vẫn còn những dấu vết của tín ngưỡng thờ
thần khai canh. Dù người trông coi Dinh
Thủy Long Thánh Mẫu Dương Đông
khẳng đ nh, ngôi Dinh này thờ bà Thuỷ
Long nhưng trong hậu cung, có hai ban thờ
Tiền hiền và Hậu hiền - những người có
công khai khẩn trong tín ngưỡng của người
dân miền Trung trở vào Nam.
10
2.3. Tín ngưỡng thờ nhân vật lịch sử
Một hiện tượng đã thành phổ biến
trong truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian
Việt Nam là xu hướng “l ch sử hóa truyền
thuyết” và “truyền thuyết hóa l ch sử”.
Điều này có nghĩa là các lớp truyền ngôn
thường có xu hướng được dân gian “gắn”
vào một sự kiện l ch sử nào đó để tăng tính
chính thống, tầm vóc và quy mô của sự
kiện và nhân vật được kể trong truyền
thuyết. Ngược lại, các nhân vật và sự kiện
l ch sử nhiều khi được “ảo hóa” bằng cách
gán cho họ những chi tiết nhuốm màu sắc
thần kỳ để tăng tính kỳ vĩ của nhân vật l ch
sử. Hai xu hướng này đan quyện vào nhau
khiến cho nhiều truyền thuyết đàng hoàng
đi vào l ch sử và nhiều nhân vật l ch sử
được tôn vinh như những v thánh, thần.
Xu hướng này có thể thấy trong tín ngưỡng
thờ Bà Lê Kim Đ nh (được cho là phu nhân
Nguyễn Trung Trực) ở ngôi Dinh Bà Ông
Lang. Đáng chú ý là, sách sử ghi chép về
chiến công của Nguyễn Trung Trực đều
không ghi chép về vợ của ông. Tuy nhiên,
do Nguyễn Trung Trực đã gắn bó với đảo
Phú Quốc vào 2 năm cuối đời (1885-1886)
với một tinh thần yêu nước rạng ngời nên
người dân Phú Quốc đã viết thêm một
trang sử mới về ông, nối dài cuộc đời ngắn
ngủi của ông, tạo nên những vầng hào
quang lung linh khiến cuộc đời ông bất tử
để có thể sống với người dân trong những
thời khắc đương đại: đó là việc thêu dệt
nên truyền thuyết về bà Lê Kim Đ nh. Và
truyền thuyết này đã không chỉ được lưu
truyền trong ngôi đền thờ Nguyễn Trung
Trực ở Gành Dầu (một bãi biển đẹp của
Phú Quốc) mà còn nhanh chóng chiếm chỗ
trong Dinh thờ Bà và hội nhập với tín
ngưỡng thờ Bà Thủy nơi đây. Bằng việc
thờ cúng hai nhân vật (một l ch sử, một dã
sử) này, tín ngưỡng thờ Bà của cư dân đảo
Phú Quốc đã tạo nên sự gắn kết giữa l ch
sử chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc
với đời sống của cư dân trên đảo.
3. TÍN NGƯỠNG THỜ BÀ – SỰ HỘI TỤ
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN NGƯỠNG
THỜ MẪU
3.1. Tín ngưỡng thờ Bà - Cậu
Nói đến tín ngưỡng thờ Bà của ngư
dân đảo Phú Quốc không thể không nhắc
đến tín ngưỡng thờ Bà - Cậu.
Bà - Cậu là ai?
Tín ngưỡng đặc biệt này đã được nhắc
đến trong các bài viết của Huỳnh T nh Của,
Nguyễn Thanh Lợi (2004 và 2012)
2
,
Dương Hoàng Lộc (2010)3 và Trương
Thanh Hùng (2012)
4
. Về vấn đề này,
Trương Thanh Hùng viết: “Hầu hết người
dân hoạt động trên sông nước đều rất tin
tưởng “Bà Cậu”. Họ cho đó là một v thần
có quyền năng rất lớn, chi phối đến đời
sống, làm ăn của dân làm nghề sông biển,
kể cả dân đánh bắt và giao thông. Đến nay,
nhiều người không hiểu Bà Cậu là ai, là
một người hay hai người. Chỉ biết rằng,
nếu Bà Cậu độ thì làm ăn sẽ phát đạt, đánh
bắt trúng, an toàn khi hành nghề. Hình
tượng Bà Cậu đối với dân sông nước nói
chung có thể là Bà Thiên Hậu (đối với
người Hoa), Bà Chúa Liễu, Thủy Long
Thánh Mẫu, là một v hoàng tử con của
Long Vương, là một v thuỷ thần, sau cùng
là những người khuất mặt nào đó tế độ cho
người làm nghề sông nước Trên ghe tàu
có một bàn thờ Bà Cậu mà bài v được viết
bằng chữ Hán là “Thủy Long Thánh Mẫu”
hay “Thánh Mẫu nương nương”. Như vậy,
chúng ta thấy rằng, Bà Cậu không còn là
hai v thần Bà và Cậu mà đó là một v thần
gọi là Bà Cậu. Tuy nhiên, nếu trên bờ thì
lại phân biệt rõ ràng Bà và Cậu, có Miễu
Bà và Dinh Cậu” (tr.90). Về nguồn gốc tục
11
thờ này, Trương Thanh Hùng đã dẫn ý của
Huỳnh T nh Của cho rằng, “Bà - Cậu chính
là “ba Bà, bảy Cậu” gắn với việc thờ Liễu
Hạnh Công Chúa”.
5
Bên cạnh đó, có một số ý kiến khá
thống nhất cho rằng, Bà là Bà Thủy, còn
Cậu đây là Cậu Tài, Cậu Quý. Đó là các ý
kiến của Dương Hoàng Lộc