Cuộc sống ngày càng phức tạp và giàu có. Và hình như, càng
giàu người ta lại càng thấy thiếu vắng gì đó. Không thể diễn
đạt bằng ngôn từ, cũng không thể gọi thành tên đó là gì
Khoa học ngày càng phát triển, con người càng thấy mọi vật
xung quanh trần trụi và mất phần thi vị, trí tưởng tượng và sự
mộng mơ cũng vì thế mà tan biến đâu hết. Thơ ca thành một
thứ vẩn vơ treo đầu ngọn cây. Và văn hóa được đóng khung
trên màn hình vô tuy ến
19 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thời của biểu tượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thời của biểu tượng?
Bài viết của TS Trần Trọng Dương
Cuộc sống ngày càng phức tạp và giàu có. Và hình như, càng
giàu người ta lại càng thấy thiếu vắng gì đó. Không thể diễn
đạt bằng ngôn từ, cũng không thể gọi thành tên đó là gì
Khoa học ngày càng phát triển, con người càng thấy mọi vật
xung quanh trần trụi và mất phần thi vị, trí tưởng tượng và sự
mộng mơ cũng vì thế mà tan biến đâu hết. Thơ ca thành một
thứ vẩn vơ treo đầu ngọn cây. Và văn hóa được đóng khung
trên màn hình vô tuyến. Thử làm một lát cắt tiết diện các hoạt
cảnh sinh hoạt gia đình mà xem. Phổ biến nhất vẫn là các
khuôn mặt cắm vào màn hình, trẻ con miệng há hốc, người
lớn lại ngủ vùi nhưng tắt ti vi cái là tỉnh ngay. Mọi người
trong gia đình ít giao tiếp với nhau hơn. Phần lớn sự liên lạc
với xã hội là ngấm ngầm, và lén lút phơi bày qua các cuộc
buôn điện thoại hay tin nhắn. Nhiều người sau một ngày lao
lực lại thấy mình là một sinh vật nhỏ bé, đơn độc và lạc loài.
Tôi hay giành thời gian “nằm vùng” nghiên cứu tại các di
tích làng xã, có đôi lần được xem các lễ cầu cúng siêu thoát
của đại gia. Toàn là dân buôn bán làm ăn, ghế cao ghế thấp.
Có nhà buôn bán hải sản toàn miền Bắc, ngày lãi vài tỉ đồng.
Vợ chỉ có mỗi việc đi khắp các chùa cầu cúng. Một lần lập lễ
đàn là tốn cả bạc tỉ. Nào là cúng vong, cúng đức Thánh Trần,
đức Lý Thường Kiệt. Rồi cúng Phật, cúng tổ.v.v. Được biết,
nhà cũng có làm công đức với các việc phúc lợi xã hội,
nhưng không thỏa, vẫn thấy bất an. Càng giàu càng bất an.
Giàu quá thành một nguy cơ. Giàu mà bất chính thì lúc nào
cũng thấy quanh mình toàn hiểm họa. Thế là cần vô số các
phương thức chống đỡ. Nào là xem nhà xem đất, mời thày
phong thủy, xây mộ tổ, trang hoàng nhà thờ họ. Vẫn chưa an
tâm, họ cần đến những thế lực khác nữa. Những thế lực phải
nằm ngoài sự hiểu biết hạn hẹp xưa nay của họ, nhưng lại
đáp ứng được sự giải tỏa về nỗi sợ và đem lại sự an lành
trong tâm hồn. Nói như ngôn ngữ phổ thông, những người
này từ “duy vật” (錢) mà tìm đến “duy tâm” (心). Nhưng cái
sự đời không nên quá rạch ròi duy nọ duy kia. Quan trọng là
lấy lại được thăng bằng cho tâm hồn và cứu cánh cho thân
phận. Quả thực những lễ nghi cầu cúng trên kia đã phần nào
cứu vớt được cơ số những người như vậy. Và xét về mặt
chức năng, chúng lại trùng khít với BIỂU TƯỢNG, như Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant từng bàn luận: Biểu tượng
“khiến đứa trẻ và con người cảm thấy mình không phải là
sinh linh đơn độc và lạc loài trong cái tập hợp rộng lớn xung
quanh”[1] hay “Biểu tượng diễn đạt một thực tại đáp ứng
nhiều nhu cầu về nhận thức, về tình yêu thương và về sự bình
an.” Trên thực tế, lễ hội (gồm lễ và hội) đều được liệt vào
bảng phân loại biểu tượng của các nhà nghiên cứu[2]. Và
mươi năm trở lại đây, nhân học biểu tượng đã trở thành
ngành nghiên cứu nóng nhất ở khắp nơi trên thế giới.
1.Thời của biểu tượng
Có cảm tưởng rằng, con người càng mông muội càng hoang
sơ thì lại càng có nhiều nỗi sợ. Con người càng ít biết đến
khoa học thì lại càng có nhiều niềm tin hơn. Những niềm tin
được dựng lên để khỏa lấp đi những nỗi sợ hãi. Và để có
niềm tin con người phải phát huy hết trí tưởng tượng của
mình về thế giới này. Tưởng tượng sinh ra các huyền thoại,
nào là Cha Rồng Mẹ Tiên, bánh chưng là đất bánh dày là
trời. Tưởng tượng sinh ra ngôn ngữ văn tự, người Việt gọi
nhau là “đồng bào” là vì thế. Tưởng tượng dẫn dắt con người
đến khoa học; biết đúc đồng luyện kim, con người tạo ra
những mô hình thế giới theo các vòng tròn đồng tâm trên mặt
trống đồng, coi đó là biểu tượng để kết nối với thần linh (tính
thông linh), để tập hợp cộng đồng và biểu trưng sự giàu có
thịnh vượng
Đặt hết niềm tin vào sự tưởng tượng của mình về thế giới
này, con người đã đi đến tín ngưỡng lúc nào không hay. Ở
Việt Nam, tín ngưỡng ban đầu là thờ các nhiên thần. Mỗi một
thần là một biểu tượng về thế giới, phản ánh vũ trụ quan của
người Việt. Đá không còn là vật vô tri vô giác mà được gọi là
linh thạch. Mây mưa sấm chớp được thần hóa thành các tín
ngưỡng của văn hóa nông nghiệp. Và nhất là sau khi tiếp xúc
với Phật giáo, hệ thống tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Điện, Pháp
Vũ, Pháp Lôi) được đưa vào thờ trong chùa với tư cách là các
vị Phật. Những niềm tin đã được cộng hưởng và hòa kết
thành các biểu tượng đa chiều.
Mẫu Thượng Ngàn
Nhưng có lẽ biểu tượng gắn bó và xuyên suốt hơn cả đối với
người Việt đó là biểu tượng MẸ. Thời mẫu hệ, mẹ là biểu
tượng của sức mạnh, là biểu tượng của sự bảo vệ. Mẹ (Thần
Mẫu) được khắc trên chuôi dao, tiếp sức cho các chiến binh
Đông Sơn. Mẹ là biểu tượng của sự sinh thành con người.
Theo truyền thuyết, mẹ luôn gắn liền với các biểu tượng khác
nhau; đất mẹ, quả bầu mẹ là những biểu tượng mẹ-người sinh
thành; Mẹ Lúa là biểu tượng cho người mẹ nuôi dưỡng. Mẫu
Thoải (Mẹ Nước), Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ Rừng)là biểu
tượng của bà mẹ chở che, phù hộ. Tư duy về mẹ mạnh đến
nỗi người Việt đã “mẫu hóa” một số vị Phật. Tứ pháp quyền
năng như thế vẫn mang dáng dấp của người phụ nữ. Quan
Âm ở Ấn Độ vốn là nam, nhưng vào đến mảnh đất này bỗng
hóa thành Phật Bà. Rồi Quan Âm nghìn tay nghìn mắt nhìn
thấu khắp nỗi khổ của chúng sinh và tế độ muôn loài, hay
Quan Âm Tống Tử ôm con trong lòng đau đáu và bất diệt, đó
là những biểu tượng sâu sắc nhất trong lòng người Việt. Ở
mảnh đất này, chỉ có mẹ mới là người xoa dịu và chở che.
Thế nhưng, đây cũng là mảnh đất quá ư khắc nghiệt, đến cả
nắng mưa cũng hùa vào với việc xóa nhòa đi tất cả
2.Cái chết của biểu tượng
Có lẽ trên thế giới, chỉ có mỗi văn tự duy nhất trở thành biểu
tượng, đó là hệ thống chữ khối vuông thuộc loại hình chữ
Hán. Chữ không chỉ là công cụ giao tế xã hội mà còn là
phương pháp để kết nối giữa con người với thần thánh, để
thông linh giữa hai cõi âm – dương. Chữ được dùng để thờ
và tán dương Phật pháp. Nhìn chữ để đoán ra người. Xem thư
pháp là xem cái “khí phách của cả một đời người” (chữ của
Nguyễn Tuân). Ở Việt Nam, chữ Hán đã được dùng từ đầu
công nguyên. Với hào khí thời đại kiến lập quốc gia, những
trí thức của triều Lý triều Trần đã sáng tạo ra chữ Nôm, dùng
để ghi lại tiếng Việt. Thư tịch Hán Nôm hiện còn có thể coi
là gần như toàn bộ di sản văn hiến truyền thống còn lại đến
nay trong suốt 4000 năm lịch sử.
Câu đối đình làng Mai Động (1966)
Ảnh: Nguyễn Bá Khỏan
Năm 1919, dưới sự cưỡng ép của chính quyền bảo hộ thực
dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn đã xuống chiếu bãi bỏ chế
độ thi cử bằng Hán văn. Năm 1945, nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chính thức công nhận chữ quốc ngữ (thứ văn
tự Latin do các cha đạo Thiên chúa giáo sáng tạo ra) là văn tự
quốc gia duy nhất. Kể từ thời điểm này, chữ Hán và chữ Nôm
trở thành những thứ văn tự chết. Cũng từ đây, người Việt trở
nên bất lực trước di sản thư tịch và văn hiến của cha ông.
Theo đó, các biểu tượng văn hóa cũng bị phủ bụi thời gian,
và dần trở thành những BIỂU TƯỢNG CHẾT. Nhiều đình
chùa bị tàn phá nặng nề, chỉ còn lại phế tích. Tất cả những gì
thuộc về phong kiến đều bị coi là cổ hủ, lạc hậu phản động và
bị giũ bỏ.
Còn nhớ một chuyện phá chùa vào thập kỷ 70 thế kỷ trước.
Các cấu kiện gỗ được dỡ ra làm trường học. Tượng Phật bị
hạ bệ, xích lại với nhau bằng thừng. Người ta giải tượng ra
cánh đồng như giải tù binh, hăng hái đào hố, hố chôn tập thể.
Kết thúc loạt đạn, không một ai chết, không một tiếng khóc.
Mọi người đều phấn khởi và hoan hỉ.
Đình chùa bị phá. Rồng phượng nằm nghe mối mọt. Bia đá bị
nung vôi. Lễ hội dập dìu với biết bao biểu tượng là thế đến
đây cũng nhạt khói hương. Phong tục tập quán dần biến mất
khỏi trí nhớ của cả cộng đồng. Đất chẳng giữ được lề, quê
không quen thói cũ. Không gian sinh hoạt cộng đồng làng xã
đã và đang biến mất. Hàng loạt các hệ thống biểu tượng
không còn nơi trú ngụ.
Sờ đầu rùa ở Văn Miếu
Hay như Văn Miếu Quốc Tử Giám, ngày nay được coi như là
biểu tượng của truyền thống hiếu học trên mảnh đất nghìn
năm văn hiến. Nhưng lạ thay, nó được “hiện đại hóa” bằng
một danh từ quá ư lạ lẫm “trường đại học đầu tiên của Việt
Nam”. Học sinh vào Văn Miếu coi việc sờ đầu rùa như một
hành vi lấy hên theo kiểu tư duy “học tài thi phận”, “may hơn
khôn”. Thắp hương lạy Khổng Tử hay Chu Văn An cũng chỉ
xuất phát từ cái lòng cầu lợi. Người ta nhét tiền vào tay Tứ
Phối để mong chộp giật được ít niềm tin. Mấy ai biết được
các biểu tượng của người xưa vẫn còn đó. Này là Thiên
Quang tỉnh, này là Bích Ung, này là cửa Bí, cửa Súc, này là
cửa Đại Thành, Tất cả không những đã trở thành BIỂU
TƯỢNG CHẾT mà đang biến mất khỏi trí nhớ của người bản
địa.
Có người nói “cưỡng lại các biểu tượng là tự cắt què đi một
phần của chính mình, làm nghèo đi toàn bộ tự nhiên; và dưới
cái cơ chế là hiện thực chủ nghĩa, chạy chốn lời gọi mời xác
thực nhất vào một cuộc sống hoàn chỉnh. Một thế giới không
có biểu tượng thì sẽ ngạt thở: nó sẽ tức thì giết chết đời sống
tinh thần của con người”. Cũng nói “thời đại không có biểu
tượng là thời đại chết; xã hội thiếu biểu tượng là xã hội chết.
Một nền văn minh không còn có biểu tượng thì sẽ chết, nó
chỉ còn thuộc về lịch sử”[3]. Thế kỷ XX đã qua, người Việt
đã bước đầu xây cho mình những biểu tượng mới Có
những biểu tượng cũ đang được phục hồi. Thế kỷ XXI còn
rất dài, kinh tế và khoa học kỹ thuật sẽ còn phát triển. Con
người càng cô đơn hơn. Có lẽ, chính vào lúc này, biểu tượng
sẽ là một trong những phương thuốc hữu hiệu nhất để con
người tìm lại mảnh đất an lạc trong tâm hồn?
* Đã in trong Tạp chí Tinh Hoa (The Magazine of Elites’
Life),
chuyên đề “Biểu tượng Việt Nam”, số 01/2009, tr.32-35.
[1] Jean Chevalier và Alain Gheerbrant.1997. Từ điển biểu
tượng văn hóa thế thế giới. Nxb Đà Nẵng. tr.XXXII.
[2] Dương Ngọc Dũng. 2003. Lễ hội nhìn từ quan điểm văn
hóa học và bối cảnh văn hóa Đông Phương. Trong “Triết
giáo Đông phương”. Nxb. Đại học Quốc Gia Tp Hồ Chí
Minh. Tr131-196.
[3] Jean Chevalier và Alain Gheerbrant.1997.sdd. tr.XXXIII.
Nhân được đọc bài về biểu tượng của Gianghan tớ cũng có
mấy chia sẻ như thế này (cá nhân nhé) ai ném đá thì tự do mà
ném trực diện nhé, tớ có biệt tài chạy cực nhanh và tránh cực
giỏi và cũng là học trò của Trương Thanh đấy nhé (xem thêm
Trương Thanh trong Thủy Hử truyện)
Với cuộc sống như hiện nay Biểu tượng có lẽ là một từ "xa
xỉ" chăng? vì đơn giản nó có thể rất khó hình dung đối với
đại đa số bộ phận tầng lớp trong xã hội Việt Nam, chúng ta
đã và đang đi tìm Biểu tượng cho Văn hóa Việt, cho du lịch
Việt, cho.... Việt. Nhưng thật ra biểu tượng của Việt Nam có
từ rất lâu, rất sớm và rất đa dạng.... và qua đó đã định hình
lên tính cách, thậm trí thói quen trong mỗi người dân Việt
Nam. Bản thân tôi cũng chỉ là một cá nhân nhỏ bé trong xã
hội rộng lớn này cũng đã từng trăn trở và đặt câu hỏi Biểu
Tượng là gì nhỉ?
Liệu có quá khó không? nhưng vô tình tôi chợt hiểu Biểu
tượng là một thứ rất đỗi gần gũi và thân thuộc với đối bất cứ
ai trong chúng ta, nó gần, thật gần mà ngay từ nhỏ chúng ta
đã từng, hoặc sống trong nó, và nó đã đi vào trong mỗi tiềm
thức của mọi con người, từ nông thôn đến thành thị, từ miền
xuôi đến miền Ngược....
Biểu tượng có nhiều và rộng khắp mọi nơi trên bản đồ chữ S
này, nhưng tôi chỉ quy phạm Biểu tượng trong một phạm vị
đặc thù nhưng chắc chắn các bạn cũng phải thừa nhận nó là
đúng và rất cần thiết trong đời sống ngày nay, cái khác chỉ là
cái tên gọi mà thôi, nhưng bản chất không có gì là mới cả.
Cụ thể nhé: Chúng ta đang công cuộc hiện đại hóa đất nước,
hạ tầng... các khu đô thị mới, trung tâm mọc lên nhiều không
kể nổi, và đương nhiên khoác lên nó là những từ hoa mỹ,
những câu mỹ miền, thậm trí những dự án đặc chất Tây
nhưng lại để cho dân ta dùng?
Một tổ hợp các khu liên hợp, một khu đô thị được khoác lên
mình những cái tên có cánh... nhưng thực chất nó chính là cái
"Làng" mà thôi, thử hình dung cái Làng của mỗi người dân
chúng ta, thậm trí ngay cả đất Kinh kỳ ngày xưa các phố
Hàng đều có "gianh giới" có những hương ước riêng ...
Làng Việt Nam có cộng đồng dòng tộc, có chợ, có đình,
chùa, có giếng làng, có trường học, có bệnh viện "hay các
thày nho dạy học kiêm bốc thuốc"... nói tóm lại trong quần
thể làng xã đều có hết thậm trí tự cung tự cấp và thử so sánh
thì các khu đô thị mới ngày nay cũng có khác gì đâu cái khác
lớn nhất là chúng ta quên mất rằng cái Làng là cái phát sinh
ra văn hóa, ra những giá trị truyền thống... liệu các "làng"
mới hiện nay có được những thứ mà cha ông trước có không.
Tôi không muốn bàn sâu về những vấn đề được coi là "nhạy
cảm" nhưng chỉ muốn nhắc lại là Cổng làng chính là biểu
tượng của văn hóa, biểu tượng của một quần thể côt lõi của
một tập thể đông đảo mọi tầng lớp tham gia sinh sống từ đời
này sang đời khác và chính nó sản sinh ra giá trị văn hóa Vật
thể và phi Vật thể
Vậy các khu đô thị mới hiện nay làm gì có cái "Cổng" nào? à
xin lỗi có chứ nhưng cái cổng đó có mấy chú Ngựa chạy loạn
xạ như chạy loạn của khu đô thị Nam thăng long, nhưng xin
thưa nó lại của một anh ngoại bang chứ không hề có văn hóa
thuần Việt
Nào là đẳng cấp, nào là hạng nọ hạng kia thế mà các vị chủ
đầu tư, kiến trúc sư lại "quên" mất việc thiết kế cái cổng
"làng" dành cho khu đô thị của mình.
Thử hỏi có vị nào đến Xala, Văn Quán... nếu không có biển
thì biết đâu vào với đâu?
Trên phương diện nào thì Biểu tượng không khó thậm chí là
rất dễ nhưng không hiểu tại sao chúng ta lại quên, hay chúng
ta cố tình quên vì cái cổng "làng" không thực sự quan trọng
và không có ý nghĩa gì trong đời sống hiện nay?
Bản sắc, văn hóa, truyền thống... không chỉ là những câu cổ
động, những cuộc phát động xong rồi thôi, mà nó cần được
khẳng định và để lại những dấu ấn mà mỗi con người trong
chúng ta đều hiểu rằng nó là những giá trị Vô giá là một
trong những giá trị tạo nên văn hóa Người Việt. Không phải
cứ ôm lấy cái cũ , cái cổ hủ, cái lạc hậu ... chúng ta sẽ và tiếp
tục phát triển nhưng không vì thể quên đi Biểu tượng mà hãy
sử dụng nó như thế nào mà được coi là văn minh, và kế thừa
là sáng tạo trên nền tảng văn hóa có bề dày.