Thử đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian

1. Đặt vấn đề Sở dĩ phải quan tâm đến việc đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian1, vì đã có các nhìn nhận, bình giá liên quan đến tác phẩm của loại truyện này không giống nhau, xuất hiện trên sách báo trong thời gian gần đây. Vẻ như những phê phán, chỉ trích ngày càng gay gắt và tỏ ra áp đảo so với các ý kiến nhằm bảo vệ sự đúng đắn và hợp lẽ của các thể loại truyện cổ. Để có thể đề xuất cách giải quyết vấn đề đặt ra một cách xác đáng, cần trình bày ở đây hai khía cạnh: sự không phù hợp với quan niệm hiện nay của một số loại hình văn hóa dân gian; và một số nhận thức về văn hóa dân gian, trong đó có truyện cổ tích (một bộ phận quan trọng của truyện cổ), cùng việc lĩnh hội, tiếp nhận thể loại truyện này.2 Nội dung đầu là nguyên nhân chính của các phê phán, chỉ trích truyện cổ, nội dung sau là các nhìn nhận được cho là hợp lẽ của các nhà nghiên cứu về vấn đề (mà việc trích dẫn chúng như một cơ sở, làm tiền đề về mặt lý luận cho việc đề xuất của bài viết).

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi 1. Đặt vấn đề Sở dĩ phải quan tâm đến việc đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian1, vì đã có các nhìn nhận, bình giá liên quan đến tác phẩm của loại truyện này không giống nhau, xuất hiện trên sách báo trong thời gian gần đây. Vẻ như những phê phán, chỉ trích ngày càng gay gắt và tỏ ra áp đảo so với các ý kiến nhằm bảo vệ sự đúng đắn và hợp lẽ của các thể loại truyện cổ. Để có thể đề xuất cách giải quyết vấn đề đặt ra một cách xác đáng, cần trình bày ở đây hai khía cạnh: sự không phù hợp với quan niệm hiện nay của một số loại hình văn hóa dân gian; và một số nhận thức về văn hóa dân gian, trong đó có truyện cổ tích (một bộ phận quan trọng của truyện cổ), cùng việc lĩnh hội, tiếp nhận thể loại truyện này.2 Nội dung đầu là nguyên nhân chính của các phê phán, chỉ trích truyện cổ, nội dung sau là các nhìn nhận được cho là hợp lẽ của các nhà nghiên cứu về vấn đề (mà việc trích dẫn chúng như một cơ sở, làm tiền đề về mặt lý luận cho việc đề xuất của bài viết). 1.1. Sự không phù hợp với quan niệm hiện nay của một số loại hình văn hóa dân gian Không ít các loại hình, sản phẩm văn hóa dân gian còn lưu truyền đến ngày nay, có những khía cạnh không mấy phù hợp với quan niệm của con người hiện tại. Điều này có thể tìm thấy rất nhiều từ phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội; các tri thức dân gian về phòng, chữa bệnh; các sáng tác về văn học, nghệ thuật,... Ở đây, chỉ nêu một vài trường hợp thuộc văn học, có liên quan đến vấn đề. Khi tìm hiểu truyện cổ tích thế tục, người viết bắt gặp hiện tượng những nhân vật là con người ranh mãnh, đã đem cái tinh ranh ra tranh giành trong thiên THỬ ĐỀ XUẤT HƯỚNG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH LUẬN VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA TRUYỆN CỔ DÂN GIAN ? TRIỀU NGUYÊN* * ThS., Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam. hạ (như tranh người đẹp, tranh của cải, chức quyền,...), và đa số họ đều thắng lợi. Có phải người xưa muốn cổ vũ cho những kẻ tinh quái này? Thật khó để có câu trả lời phù hợp. Biết đâu, vì muốn hướng người nghe vào điều khôn3, mà người thời trước đã đánh đồng giữa khôn ngoan và ma mãnh; hay do không hiểu được sự ra đời của ranh ma, quỷ quyệt là từ cái khôn đã bước qua lằn ranh của lẽ phải và điều thiện mà thành?4 Khi tìm hiểu truyện trạng, lại nhận ra, phần lớn lập luận của các nhân vật trạng quen thuộc như Trạng Quỳnh, Men Chây Prạt (người Khơ Me), Xiển Bột, Xiêng Miêng (người Thái), Thủ Thiệm,... đã sử dụng lối nguỵ biện hay có tính chất nguỵ biện. Có ba nội dung liên quan được tìm thấy, đó là: lấy cái lý làm trọng, kể cả lý gian; vận dụng các quan niệm có phần cực đoan hay thiếu tính vị tha: “vi phú bất nhân”, “khôn sống mống chết”, “ăn miếng trả miếng”, “dĩ độc trị độc”,...; và về mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện: lấy mục đích biện minh cho phương tiện. Quan niệm “lấy mục đích biện minh cho phương tiện” được xem là phương châm hành động của nhân vật trạng. Vì mục đích tốt đẹp là sự công bằng xã hội và cái lý được tôn trọng, nhân vật trạng có thể sử dụng các phương tiện thiếu tử tế, không được quang minh chính đại, như tạo hiện trường giả hòng chiến thắng đối phương. Chẳng hạn, với nhóm truyện các trạng Ba Giai, Phủ Tuấn, Thủ Thiệm,... trị thói nanh nọc, chanh chua của các ả bán hàng; có thể thấy rằng: để mọi người không bị xúc phạm, việc mua bán được công bằng (mục đích), các trạng đã không từ phải làm những việc thô lỗ ngay giữa chốn đông người (phố phường, chợ búa,...), như chửi rủa, tuột quần mình, bóp vú người (phương tiện). Nhờ cái mục đích tốt đẹp, cao quý kia, mà các phương tiện xấu xa, bỉ ổi nọ không bị cho là sai bậy (được biện minh). 65Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi Con người hiện nay đều biết, ranh mãnh là sai trái, nguỵ biện là không hợp lẽ, “lấy mục đích biện minh cho phương tiện” là thiếu đúng đắn (bởi kẻ đã làm điều bất công, mờ ám thì khó thể nói kẻ ấy sẽ đem lại sự công bằng, minh bạch).5 Trong lúc những điều vừa nêu từng tồn tại trong tác phẩm văn học dân gian, phù hợp với tâm lý, quan niệm và thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng một thời gian dài, có thể đến cả nghìn năm. Vì vậy, cần phải tìm cách phù hợp để giải quyết. 1.2. Nhận thức về văn hóa dân gian, trong đó có truyện cổ tích, và việc lĩnh hội, tiếp nhận thể loại truyện này Dưới đây là việc trình bày ba nội dung chủ chốt (theo cách thật ngắn, gọn) liên quan, làm cơ sở cho các nhìn nhận, có tác dụng như sự đề xuất, ở mục tiếp sau: 1/ Một số nhà nghiên cứu ở Anh, Pháp luôn nhấn mạnh đến bình diện “truyền thống” (và chú ý đối lập nó với hiện đại), của các loại hình, sản phẩm folklore.6 Chẳng hạn (hai trích dẫn đầu của người Anh, hai trích dẫn sau của người Pháp): “(Đối tượng nghiên cứu của folklore) là những tàn dư về tinh thần của nhân dân (dân chúng) thuộc các dân tộc cổ đại và những thiên kiến cổ hủ, những huyền thoại vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay mà không phải là hiện tượng hiện đại” (Lang A.); “Folklore học nghiên cứu sức mạnh của truyền thống trong quan niệm của nhân dân về tâm hồn, trong những quan niệm về tổ tiên và các quan niệm thần bí, trong hình ảnh của linh hồn và thần linh, trong niềm tin vào thế giới bên kia, trong ma thuật, thần thoại, truyện cổ tích,...” (Cox M. R.); “(Folklore là) truyền thống dân gian theo quan niệm rộng rãi của từ này, bao gồm tất cả những cái được lưu truyền trong nhân dân từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Truyền thống đó được phản ánh dưới những hình thức khác nhau: dân ca, tục ngữ, cổ tích, tín ngưỡng hoặc mê tín” (Gittee A.); “Folklore là những tri thức tập thể phi học thuyết và thực hành tập thể phi lý luận. Phạm trù quan trọng nhất của folklore là tính truyền thống và tính tập thể” (Varagnac A.)...7 2/ Riêng truyện cổ tích, một sản phẩm của folklore, theo Nguyễn Đổng Chi, có ba đặc điểm: a) Tính chất cổ của sự việc; b) Trong sự việc được kể, đừng có yếu tố gì quá xa lạ với bản sắc dân tộc; và c) Truyện cổ tích ít nhiều phải thể hiện tính tư tưởng và tính nghệ thuật [4, 66 - 72]. Có thể thấy, hai nội dung đầu thuộc truyền thống, nội dung thứ ba là điều tất yếu của một tác phẩm văn học, ở đây là văn học dân gian. 3/ Để tiếp nhận một tác phẩm văn học, người tiếp nhận “trước hết, bị quy định bởi văn bản tác phẩm, với các mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật, mã văn hóa kết tinh trong đó; thứ đến, bị quy định bởi kinh nghiệm tiếp nhận do truyền thống văn học và sự tiếp nhận các tác phẩm đã có trước đó; và cuối cùng, bị quy định bởi nhu cầu đời sống, họ chờ đợi ở tác phẩm những vấn đề, những hiện tượng, hiện thực mà họ quan tâm”.8 Điều vừa nêu được xem là cơ bản trong việc tiếp nhận và nâng lên thành lý thuyết tiếp nhận. Lý thuyết tiếp nhận ấy có thể dùng chung cho cả văn học dân gian lẫn văn học viết. Riêng với văn học dân gian, trường hợp truyện cổ tích, có lẽ cần bổ sung theo kiểu nhấn mạnh, rằng phải chú ý nhiều hơn đến: a) Những quy phạm về việc lĩnh hội, bao gồm sự cần thiết phải nắm bắt các “mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật, mã văn hoá” được biểu đạt ở văn bản tác phẩm; b) Những sự việc, vấn đề được đặt ra trong truyện không do cá tính sáng tạo của nhà văn, mà đây là quan niệm, cảm nhận thẩm mỹ của một cộng đồng, một dân tộc, thuộc truyền thống của cộng đồng, dân tộc hay đất nước liên quan. 2. Đề xuất hướng giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian 2.1. Sự nhìn nhận nói chung về nội dung của truyện cổ dân gian 2.1.1. Để nắm bắt ý nghĩa của truyện ngụ ngôn dân gian Việt Nam, người viết có nêu “định hướng”, rằng tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung, nhằm phục vụ con người, nên ý nghĩa (nội dung tư tưởng, tác dụng thẩm mỹ) rút ra phải nhắm vào con người.9 Trước đó, Gulaiep N. A. đã có ý tương tự: “Hình tượng nghệ thuật trở thành có giá trị về mặt thẩm mỹ khi nào nó bao hàm được một đối tượng có tính người, khi nó được tư tưởng soi sáng, phơi bày hiện thực trong mối quan hệ của nó đối với con người”.10 Từ xa xưa, Aesop (Êdốp) cũng hình tượng hóa điều vừa nêu bằng mẩu truyện “Người và Sư Tử”. Truyện rằng: Hôm nọ, Người và Sư Tử đi cùng đường, cả hai ra sức huyênh hoang, tự ca ngợi mình. Nhân cạnh đường đi có tảng đá, trên có chạm hình người đang bóp cổ sư tử, Người mới chỉ hình chạm ấy cho bạn đồng hành của mình thấy, và nói: “Thấy chưa, con người khỏe hơn sư tử”. Sư Tử thoáng mỉm cười, nói rằng: “Nếu Sư Tử cũng biết chạm thì Người sẽ thấy hình chạm sư tử cưỡi trên lưng người!”.11 Sẽ không có một bức chạm như nhân vật Sư Tử trong truyện nói. Vì sư tử thì vĩnh viễn không biết chạm, mà người biết chạm thì không muốn bị nó cưỡi. Bức tượng (chạm hình người đang bóp cổ sư tử) có thể lãng mạn, viễn tưởng, nhưng đó là mong muốn dùng sức mạnh để chế ngự thế giới tự nhiên của người, nhằm đề cao con người. Thật ra, với truyện ngụ ngôn và truyện cổ tích loài vật, là cần đặt ra việc “định hướng” này hơn cả. Bởi ở đó, cả con vật, đồ vật, và con người đều là nhân vật truyện; và ở nhóm truyện có nhân vật là con vật và con người, hai bên lại có tác động trực tiếp đến nhau 66 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi (như người có lúc thắng, cũng có lúc thua vật). Chẳng hạn, truyện cổ tích loài vật “Thỏ xử kiện tài tình” (truyện người Kinh), có bộ phận “Xử con yêu tinh chiếm đoạt vợ người”, được biểu đạt theo mô hình của truyện ngụ ngôn. Bộ phận truyện này kể về con thỏ thông minh, sáng suốt, trước hai kẻ giống hệt nhau về hình dáng, nhưng bản chất thì một bên là người một bên là yêu tinh, thỏ đã xác định một thuộc tính của bản chất, cái có thể phân biệt được hai đằng, đó là “biến hóa được” (yêu tinh) và “không biến hóa được” (người), rồi chỉ dùng một câu nói bẫy là bắt được yêu tinh. Vậy đây là truyện nhằm ca ngợi thỏ tài năng, phê phán quan kém cỏi? Hoàn toàn không phải như vậy. Con người sáng tạo nên nó, chủ yếu và trên hết là để phục vụ cho mình. Cho nên, ý nghĩa được suy ra chỉ có thể là: Người thông minh có khả năng lý giải tường tận, suy xét thấu đáo, và đưa ra kết luận phù hợp về vấn đề mà họ quan tâm. Nghĩa này không chỉ là một nhìn nhận thực tiễn khách quan mà còn hàm ý cả việc cần ưu đãi, tôn trọng bậc tài năng đang sống đâu đó trong nhân dân. Tương tự với truyện này, có “Hai người chồng giống nhau” (truyện người Thái), chép ở Văn hóa dân gian xứ Nghệ - Tập II: Truyện kể dân gian xứ Nghệ (Ninh Viết Giao (2012), Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 828 - 829). Ở truyện người Thái, nhân vật xử kiện là Khạ, một chàng trai thông minh (Cách xử của Khạ: Anh bảo hai người cùng xưng là chồng cô gái thổi sáo. Khi họ thổi xong, anh khen cả hai thổi hay, rồi nói: ai chui được vào ống sáo là chồng của cô gái. Con yêu tinh mắc lỡm, ỷ mình có phép thuật, liền chui ngay vào, và bị Khạ bít ống sáo lại, ném vào bếp lửa, mất mạng). Nhân vật thỏ ở truyện người Kinh, được thay bằng Khạ, một chàng trai dân tộc Thái. Mỗi khi ta hiểu các truyện cùng mô hình đều có chung một nghĩa, bấy giờ, các nhân vật trong mô hình ấy là “nhân vật chức năng”, thì ý nghĩa vừa nêu hoàn toàn hợp lẽ, không có gì phải bận tâm nữa. 2.1.2. Đến đây, đã có thể nêu sự nhìn nhận của bài viết về nội dung của truyện cổ dân gian. Sự nhìn nhận ấy là kết quả, hệ luận được rút ra từ các quan niệm đã trình bày, như sau: 1/ Văn học nghệ thuật do con người làm ra, chúng phản ánh hiện thực cuộc sống theo hướng phục vụ con người, nên các nội dung ở số truyện có nhân vật là con vật cũng thực hiện yêu cầu ấy, là luôn vì con người, lấy con người làm mục đích (bấy giờ, con vật hoặc sắm vai người hoặc đồ chiếu lên xã hội con người, chứ không phải tự thân); 2/ Trong quan hệ giữa con người với con vật, tục ngữ có câu “Chim với phượng cũng kể loài hai chân, thú với kỳ lân cũng kể loài bốn vó”, ý nói, dù rực rỡ và thiêng liêng như phượng, như kỳ lân, chúng cũng là loài chim, loài thú, mà chim muông là để nuôi người (“vật dưỡng nhân”), chẳng có gì phải kiêng, phải sợ12; đây là quan niệm đặt con người ở vị trí tối thượng, các con vật, không kể là bình thường hay linh thiêng, đều phải phục vụ con người; 3/ Để tiếp nhận truyện cổ dân gian, trong đó có truyện cổ tích, nhằm nắm bắt nội dung của chúng, cần đặt truyện vào truyền thống văn hóa của các dân tộc, của đất nước; hơn nữa, vì sự việc mà truyện đặt ra thuộc về quá khứ và của tập thể, nên người đọc, nghe ở thời hiện tại, dù có vừa ý hay không cũng không thể phủ nhận, cải biên.13 2.2. Sự nhìn nhận ấy cũng là định hướng để giải quyết các tranh luận về một số nội dung của truyện cổ dân gian Có thể xem ba nhìn nhận vừa nêu như một “Bộ quy tắc ứng xử” của người lĩnh hội, trước nội dung của truyện cổ. Hai nội dung đầu liên quan đến các truyện cổ có nhân vật là con vật, được tìm thấy nhiều ở truyện ngụ ngôn và truyện cổ tích loài vật, nội dung sau chi phối toàn bộ truyện cổ, không kể nhân vật là con người, con vật hay đồ vật. Dưới đây là việc thử vận dụng các quan niệm, nhìn nhận đã trình bày để xem xét một số trường hợp sử dụng tác phẩm truyện cổ dân gian đang gây tranh luận hiện nay. Trong số các truyện này, có ba truyện được nhiều người quan tâm hơn cả: a) Truyện ngụ ngôn “Trí khôn của ta đây!”14; b) Truyện cổ tích thần kỳ “Tấm Cám”; và c) Truyện cổ tích loài vật “Gốc tích cái nốt dưới cổ con trâu”. + “Trí khôn của ta đây!” được dẫn ở Truyện đọc lớp 2. Truyện kể về một con cọp thấy con người nhỏ thó lại điều khiển được con trâu to sụ, thì lấy làm lạ, mới gặp trâu để hỏi lý do. Trâu bảo, người bé nhưng có trí khôn. Cọp không hiểu trí khôn có hình thù ra làm sao mà ghê gớm đến vậy, bèn đến gặp người nông dân, ngỏ ý muốn được xem nó. Người nông dân bảo sẵn lòng đi lấy cho xem nhưng sợ cọp ăn mất trâu. Cọp rất muốn xem, bằng lòng để bác ta trói mình lại. Trói được cọp rồi, bác đem lửa đốt nó, bảo “Trí khôn của ta đây!”. Sự phản ứng mạnh mẽ nhất đối với truyện này, cho rằng: nhân vật người nông dân đã thiếu trung thực, bội ước với một con vật thật thà, cái trí khôn như vậy thật ra là khôn vặt, thậm chí là xảo quyệt, lừa đảo. Có thể thấy một nhận xét kiểu này đã hàm ý phủ nhận nội dung truyện, tức trái ngược với sự nhìn nhận vừa nêu “dù có vừa ý hay không, cũng không thể phủ nhận, cải biên”. 67Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi + “Tấm Cám” được đưa vào giảng dạy hai tiết trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Ở phần cuối truyện, Tấm đã giết Cám bằng cách bảo em xuống một cái hố rồi dội nước sôi xuống; sau khi Cám chết, Tấm sai người làm mắm và gửi về cho mụ dì ghẻ ăn, khiến mụ ta hoảng sợ mà chết. Việc trừng phạt, trả thù của Tấm đối với mẹ con Cám như vậy đã khiến nhiều người băn khoăn. Có người cho rằng việc trả thù này không phù hợp với tính cách hiền hậu của Tấm; người khác lại bảo, đó là việc làm tàn độc, nếu dạy trẻ là dạy cái ác. Một số nhà nghiên cứu đã bảo vệ Tấm (đúng hơn, là bảo vệ truyện cổ tích đang bàn). Theo Hoàng Tiến Tựu, trước khi bị giết, mỗi lần bị đối xử bất công, bị thua thiệt, Tấm đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc, còn ở giai đoạn hậu thân, cô ngày càng tỏ ra đáo để và quyết liệt việc trừng trị Cám. Ông gọi đó là logic phát triển tính cách của nhân vật Tấm, và viết: “Một khi đã thấy rõ mối quan hệ và sự phù hợp giữa hành động trả thù với logic phát triển tính cách của Tấm thì sự băn khoăn về mức độ và hình thức trả thù của nhân vật này cũng không thành vấn đề phải đặt ra để bàn cãi nữa”.15 Nguyễn Xuân Kính cho rằng việc Tấm trả thù mẹ con Cám là tất yếu, không có gì xa lạ với cách nghĩ và tâm lý dân tộc. Ông viết: “Ở thời điểm hiện tại, có thể chúng ta chưa tán thành cách thức trả thù của Tấm, nhưng việc Tấm trả thù là cần thiết và chính đáng”.16 Chu Xuân Diên đã phỏng đoán rằng, các tình tiết làm thành đoạn kết ở truyện Tấm Cám của người Việt, là những motif (đúng hơn, là những biến thể của những motif ) có nguồn gốc từ thực tại của con người thời xưa. Có hai motif được đề cập, là motif “Chết do bị dội nước sôi”, và motif “Mẹ ăn thịt con mà không biết”. Ông cho rằng, tính chất cổ xưa của truyện Tấm Cám trước hết do đề tài, cốt truyện và các motif của nó. Những hành động và tính cách của nhân vật trong truyện cổ tích, nếu đối với người “ngày xửa ngày xưa” là hợp lý, thì đối với người hiện nay là vô lý. Ông viết: “Vì thế không nên bằng cách bình luận văn học, và thậm chí cả bằng cách sửa chữa truyện cổ tích theo hướng hợp lý hóa, cho phù hợp với tư duy logic của con người hiện nay, mà làm mất đi cái vô lý ấy của truyện cổ tích. Vấn đề là giải thích được sự vô lý ấy, phát hiện ra cái hợp lý của bản thân truyện cổ tích, một loại truyện của ngày xửa ngày xưa”.17 Có thể thấy, nếu Hoàng Tiến Tựu cho việc trả thù của Tấm là phù hợp với tính cách của nhân vật (hàm ý về sự hiển nhiên), thì Chu Xuân Diên lại cho điều này thuộc về thi pháp dựng truyện. Sự phỏng đoán của Chu Xuân Diên không phải là không có cơ sở. Có điều, dù việc “lắp đặt” các motif (và type, mô hình cấu trúc văn bản) có sẵn là chuyện truyện cổ thường làm, nhưng không thể nói là không còn cách nào khác, hay việc làm ấy đã đi ngược với quan niệm của người xưa. Tức phải thừa nhận chuyện trả thù của Tấm là một việc làm phù hợp chẳng những với tính cách nhân vật, mà còn với tâm lý, quan niệm của nhân dân (mà như vậy, thì mọi biện bạch cho nhân vật Tấm trở nên không cần thiết). Theo đó, cũng như đã bàn ở truyện “Trí khôn của ta đây!”, để bác bỏ các ý kiến nhằm lên án một vấn đề thuộc nội dung truyện, tốt nhất vẫn là vận dụng “Bộ quy tắc ứng xử”, theo cách như đã nêu ở trường hợp trước. + “Gốc tích cái nốt dưới cổ con trâu” là một trong ba bản kể của type Tại sao trâu không biết nói? (truyện người Kinh), với bảy tài liệu ghi chép nó [5, 277 - 278]; đây là một truyện khá quen thuộc. Dưới đây, có lẽ là nhận xét mới nhất về truyện này, đặc biệt là nhân vật người trong truyện: “Tôi thực sự sốc. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại tuyên truyền những truyện như thế? Lại còn dịch ra tiếng Anh cho bạn bè quốc tế đọc nữa. [...] Tôi sốc bởi trong truyện này, cậu bé chăn trâu là một kẻ xấu. Cậu lười lao động, khôn lỏi, gian dối với người và tàn nhẫn với trâu - loài động vật hiền lành, có ích. Ông lão (ông Bụt) khi biết chuyện đã không dạy bảo điều khôn, lẽ phải cho cậu, lại còn thương hại kẻ xấu mà ra tay làm điều ác với con trâu. Chúng ta muốn dạy người Việt Nam điều gì qua truyện cổ tích phản giáo dục này, khi điều xấu, việc ác không những không bị lên án, mà còn được chia sẻ và tiếp tay?”.18 Có thể thấy, truyện được dựng lên nhằm giải thích về cái nốt dưới cổ con trâu. Chúng ta đã biết, ở truyện cổ tích loài vật, từ một sự việc thuộc vóc dáng con vật, có nhiều truyện được dựng lên với nội dung khác nhau, để giải thích sự việc ấy. Chẳng hạn, cùng giải thích về cái nốt dưới cổ con trâu đang bàn, còn có truyện “Con trâu thù con chuột” (truyện người Tày), chép ở: Huyền thoại dân tộc Tày (Triều Ân (2011), Hà Nội: Thanh niên, 81- 82). Ở truyện này, nhân vật người nông dân đã đốt cái huyệt dưới cổ con trâu, khiến nó bị câm (và tạo thành cái nốt sau đó), theo sự chỉ bày của con chuột. Việc đốt ấy nhằm thuần phục trâu, và để trâu làm việc cày kéo cho người được tốt hơn. Theo đó, thì điều giải thích ở truyện này không vượt ra ngoài mục đích lấy việc bảo vệ con người làm chính, con vật phải phục vụ con người (phục vụ một cách hiển nhiên, vô điều kiện), như đã nêu. Bên cạnh đó, việc phổ biến truyện cổ tích (dạng văn bản viết, hình vẽ, phim ảnh,...), cốt để người đọc nắm bắt một khía cạnh thuộc truyền thống văn hóa, không phải và không nên sử dụng như một phương tiện để tuyên truyền. Mặt khác, truyện thuộc thế giới của hư cấu và tưởng tượng. Đã có truyện