Thư tịch chữ Hán tại Nhật Bản

Trước thế kỷ thứ IX, về phương diện ngôn ngữ, Nhật Bản vẫn ở trong tình trạng “ngôn văn phân ly” (tiếng nói và chữ viết chưa thống nhất với nhau). Nghĩa là ở thời đó, người Nhật Bản vẫn nói ngôn ngữ cổ xưa bản địa, nhưng họ chưa có một hệ thống ngôn ngữ riêng để ghi lại tiếng nói của mình. Vào khoảng thế kỷ thứ IV (TCN), có một số cư dân Trung Quốc xuyên qua bán đảo TriềuTiên và Đông Hải di cư đến Nhật Bản. Trong lịch sử nhân loại học Nhật Bản, người ta gọi người Trung Quốc di cư đến Nhật Bản trong khoảng thời gian bảy tám trăm năm, từ thế kỷ thứ IV (TCN) đến thế kỷ thứ III, là “Tần Hán độ lai nhân” (gọi tắt là Người Tần Hán), còn những lưu dân Trung Quốc di cư đến Nhật Bản trong giai đoạn từ sau thế kỷ thứ III là “Tân Hán nhân” (người Hán mới). “Người Tần Hán” và “Người Hán mới” chính là một bộ phận tổ tiên của dân tộc Nhật Bản ngày nay. Khi người Hoa di cư đến đảo quốc Nhật Bản, họ mang theo mình cả những kỹ thuật sản xuất và Hán tự, Hán văn sang xứ sở hoa anh đào.

pdf8 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thư tịch chữ Hán tại Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thư tịch chữ Hán tại Nhật Bản Trước thế kỷ thứ IX, về phương diện ngôn ngữ, Nhật Bản vẫn ở trong tình trạng “ngôn văn phân ly” (tiếng nói và chữ viết chưa thống nhất với nhau). Nghĩa là ở thời đó, người Nhật Bản vẫn nói ngôn ngữ cổ xưa bản địa, nhưng họ chưa có một hệ thống ngôn ngữ riêng để ghi lại tiếng nói của mình. Vào khoảng thế kỷ thứ IV (TCN), có một số cư dân Trung Quốc xuyên qua bán đảo Triều Tiên và Đông Hải di cư đến Nhật Bản. Trong lịch sử nhân loại học Nhật Bản, người ta gọi người Trung Quốc di cư đến Nhật Bản trong khoảng thời gian bảy tám trăm năm, từ thế kỷ thứ IV (TCN) đến thế kỷ thứ III, là “Tần Hán độ lai nhân” (gọi tắt là Người Tần Hán), còn những lưu dân Trung Quốc di cư đến Nhật Bản trong giai đoạn từ sau thế kỷ thứ III là “Tân Hán nhân” (người Hán mới). “Người Tần Hán” và “Người Hán mới” chính là một bộ phận tổ tiên của dân tộc Nhật Bản ngày nay. Khi người Hoa di cư đến đảo quốc Nhật Bản, họ mang theo mình cả những kỹ thuật sản xuất và Hán tự, Hán văn sang xứ sở hoa anh đào. Do sự xuất hiện của một số lượng khá đông đảo những “người Tần Hán” và “người Hán mới” như vậy, cho nên ở Nhật Bản đã hình thành lớp người sử dụng chữ Hán và sáng tác bằng Hán văn. Có thể nói rằng lớp người này là giai tầng trí thức sớm nhất của dân tộc Nhật. Ngôn ngữ mà người Nhật cổ sử dụng vẫn là tiếng Nhật, nhưng đã được ghi lại bằng chữ Hán. Chính vì vậy, những thư tịch đầu tiên của Nhật Bản cũng đều được viết bằng Hán tự. Tài liệu cổ xưa nhất mà người Nhật Bản hiện còn lưu giữ được là Uy quốc vương Vũ trí Tống Thiệu đế biểu. Đây là “quốc thư” của quốc vương Nhật Bản đương thời gửi cho Tống Thuận đế của Trung Quốc thời Nam Triều (thế kỷ V) nói về tình hình chính trị và quân sự Nhật Bản lúc đó. Bức thư này được viết bằng Hán văn và sử dụng thể biền ngẫu của Trung Quốc. Vì vậy, trong lịch sử phát triển văn hoá Nhật Bản, trước khi người Nhật sáng tạo ra chữ viết riêng, thì ở nước Nhật đã hình thành một hệ thống văn hoá thư tịch bằng chữ Hán, và người Nhật gọi đó là “hệ thống văn học Hán”. Ví dụ bộ tuyển tập văn học đầu tiên của Nhật Bản là Hoài phong tập, đây là thi tập được hợp thành từ hơn 120 bài thơ chữ Hán của 60 tác giả người Nhật. Hệ thống “văn học Hán” trong văn hoá Nhật Bản ấy đã chứng minh quan hệ gắn bó về văn hoá giữa hai nước Trung Quốc và Nhật Bản có từ thời xa xưa (). Căn cứ vào những ghi chép trong các sử sách hiện còn lưu giữ được, thì các thư tịch chữ Hán được truyền đến Nhật Bản sớm nhất là vào “năm thứ 16 thời thiên hoàng Ứng Thần”. Cuốn sách tối cổ của Nhật Bản hiện còn là Cổ sự ký viết: “Thiên hoàng Ứng Thần mệnh lệnh cho nước Paeckche (Bách Tế/Triều Tiên) nếu có người hiền thì hãy dâng lên. Người được dâng lên theo lệnh thiên hoàng có tên là Wani (Hoà Nhĩ Cát Sư) cùng với 10 quyển Luận ngữ, 1 quyển Thiên tự văn, tổng cộng là 11 quyển”. Mà thiên hoàng Ứng Thần là một vị quốc vương trong truyền thuyết của Nhật Bản, không có niên đại xác thực, theo sự suy tính của nhà sử học Nhật Bản quyền uy Inoue Mitsuharu thì, thời gian được ghi lại ở đây ước chừng vào khoảng nửa sau thế kỷ thứ IV TCN, tương đương với cuối thời Nam Bắc Triều và đầu thời Tuỳ Đường bên Trung Quốc. Tên chữ Hán của nhân vật Wani này là Vương Nhân, tuy ông được cho là người Paeckche đến đảo quốc Nhật Bản, nhưng theo sự suy đoán của tôi, Vương Nhân có khả năng là người tộc Hán di cư đến bán đảo Triều Tiên, hay chí ít, ông cũng là một hậu duệ của người Hán sống ở Triều Tiên. Chính Vương Nhân là người đầu tiên đem Luận ngữ và Thiên tự văn của Trung Quốc đến Nhật Bản. Bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ III TCN, những người Ainu (Proto-Japanes) đã dần dần bị dồn về phương Bắc, họ phát triển sản xuất trên cơ sở canh tác nông nghiệp (trồng lúa) và sử dụng đồ sắt, chuẩn bị thành lập một quốc gia cổ đại. Trong quá trình này, nhu cầu bức thiết của những người cầm quyền là phải có những nguyên tắc chính trị để lập quốc trị dân. Trong khi đó, học thuyết Nho gia đã rất phát triển và lý luận chính trị của nó đã nhanh chóng được người Nhật Bản chú ý. Chính vì thế, Luận ngữ là sự lựa chọn đầu tiên trong số các thư tịch được truyền vào Nhật Bản. Thiên tự văn cũng được đưa vào Nhật để đáp ứng nhu cầu học tập chữ Hán, Hán văn và văn hoá Trung Quốc; đây cũng là yêu cầu cơ bản nhất của giai cấp thống trị Nhật Bản. Từ đó về sau, thư tịch Trung Quốc truyền vào Nhật Bản ào ạt. Và lúc này, Phật giáo cũng bắt đầu thâm nhập đất Nhật, hơn nữa, những kinh điển Phật giáo truyền vào Nhật Bản đương thời cũng đều được viết bằng chữ Hán. Đó là những ngọn nguồn cơ bản nhất nuôi dưỡng văn hoá và tư tưởng tinh thần của tầng lớp trí thức Nhật Bản cổ đại. Nhật Bản cổ đại, bắt đầu từ thời Thiên hoàng, người ta đã rất chú ý đến việc đọc và học tập các kinh điển, thư tịch của Trung Quốc. Sau khi nhà nước cổ đại Nhật Bản được kiến lập, chính phủ đã nhanh chóng tổ chức cơ cấu các: Hoằng văn viện, Thái chính quan văn điện, Nhà đại học, Điện hiệu thư, Thư viện sưu tập và gìn giữ các thư tịch chữ Hán. Ví dụ “Thư viện” lúc đó là văn khố của hoàng gia, qua mấy lần đổi tên, ngày nay nó được gọi là “Cung nội sảnh thư lăng bộ” (viết tắt là Sảnh thư). Sảnh thư được xây dựng vào năm 701, đến nay đã hơn 1.300 năm tuổi, hiện tại nó vẫn là nơi cất giữ thư tịch Trung Quốc cổ xưa nhất của Nhật Bản. Cho đến nay, người ta vẫn chưa xác định được số lượng sách vở trong văn khố hoàng gia này là bao nhiêu. Theo sự điều tra của chúng tôi, số Hán tịch trong Sảnh thư này gồm có: 6 loại tả bản thời Đường, 72 loại san bản thời Tống, 1 bộ san bản kinh Đại tạng được viết trên 6.263 thiếp lụa thời Tống, 69 loại san bản và 5 loại tả bản thời Nguyên, 970 loại san bản và 1 san bản kinh Đạo tàng viết trên 4.115 thiếp lụa thời Minh. Ngoài ra, Sảnh thư này còn có khoảng một trăm loại thư tịch cổ chữ Hán thời Koryo của Triều Tiên và các tả bản viết bằng chữ Hán của chính người Nhật Bản từ thời Nara đến thời Edo, cùng với các bản khắc in chữ Hán từ thời Ngũ Sơn về sau. Nhưng đây không phải là toàn bộ, vì có một số tàng thư của hoàng gia vẫn còn đang nằm rải rác trong các hoàng thất, số thư tịch này, hiện chúng tôi vẫn chưa được thấy. Số thư tịch Trung Quốc phong phú và quý giá được sưu tập và lưu giữ trong văn khố hoàng gia trong 1.300 năm ấy, quả thực là hiếm thấy trên thế giới. Rất nhiều Thiên hoàng Nhật Bản đã tìm hiểu văn hoá Trung Quốc qua những thư tịch đó, nó cũng có tác dụng quan trọng đối với văn hoá và đạo đức người Nhật Bản cổ xưa. Hãy lấy thế kỷ thứ IX làm ví dụ. Năm 814, thiên hoàng Tha Nga (Saga) lên ngôi và trong khoảng thời gian không đầy bốn năm, ông đã ra sắc lệnh biên soạn hai tập thơ chữ Hán là Lăng Vân tập và Văn hoa tú lệ tập. Năm 827, thiên hoàng Hưởng Hoà lại ra sắc lệnh biên soạn tập thơ văn chữ Hán Kinh quốc tập. Trong lịch sử văn hoá Nhật Bản, ba tập sách này được gọi làSắc lệnh tam tập, toàn bộ nội dung trong đó đều viết bằng chữ Hán. Năm 833, thiên hoàng Nhân Minh lại mở lớp nghiên cứu bộ Quần thư trị yếu của Nguỵ Trưng (thời Đường, Trung Quốc) soạn trong cung đình. Năm 855, thiên hoàng Văn Đức ra sắc lệnh soạn Tục Nhật Bản hậu ký bằng Hán văn. Năm 860, thiên hoàng Thanh Hoà ra sắc lệnh phổ biến sách Hiếu chú (do Đường Huyền tông chú thích) ra toàn Nhật Bản. Năm 879, thiên hoàng Dương Thành ra sắc lệnh biên soạn bộ ký sự cung đình đầu tiên của Nhật Bản: Văn Đức thực lục, mô phỏng theo thể thực lục của Trung Quốc. Năm 892, thiên hoàng Vũ Đa ra sắc lệnh soạn tiếp bộ Văn Đức thực lục, lại lệnh soạn tiếp bộ Tam đại thực lục theo thể thực lục của Trung Quốc. Trong khoảng thời gian một trăm năm này, bảy đời thiên hoàng đều đọc thư tịch chữ Hán và viết bằng Hán văn, xem đó là nhiệm vụ cấp thiết trong việc xây dựng văn hoá quốc gia Nhật Bản. Cho đến nay, mục lục thư tịch chữ Hán hoàn chỉnh nhất của Nhật Bản hiện còn giữ được là Bản triều kiến tại thư mục lục, sau này người ta còn gọi là Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục do Đại học đầu (tương đương hiệu trưởng trường Thái học) đương thời là Fujiwara Suketsugi biên soạn vào thế kỷ thứ IX dựa trên những thư tịch quan phương. Thư mục này bao gồm các sách vở chữ Hán của Nhật Bản và các nước khác, gồm 1.568 bộ (17.209 quyển). Số điển tịch này tương đương với 50% số điển tịch thời Tuỳ và tương đương với 51.2% số điển tịch thời Đường của Trung Quốc. Vào thế kỷ thứ IX, mà một quốc gia có đến một nửa số sách vở được ấn hành là của một quốc gia khác, thì đây quả thực là điều hết sức đáng kinh ngạc, là chuyện độc nhất vô nhị trong lịch sử văn hoá nhân loại đương thời. Quý tộc thời cổ Nhật Bản là tầng lớp nắm bắt chữ Hán và văn hoá Hán sớm nhất. Mà ở xã hội cổ đại Nhật Bản, là thời kỳ văn hoá quý tộc chiếm vị trí chủ lưu. Các quý tộc và phần tử trí thức thời kỳ này, bao gồm trong đó cả hoàng thất, đều lấy văn minh Trung Quốc làm tiêu chuẩn, và họ rất quý trọng các sách vở chữ Hán. Đương thời, trong tập Trì đình ký (năm 982) của học giả trứ danh Yoshi no Yashutane từng miêu tả thú vui trong ngày của ông như sau: “Sau khi dùng cơm, vào thư phòng, mở sách ra, gặp hiền nhân xưa. Thấy Hán Văn đế là chúa thời khác mà biết tiết kiệm an dân, thấy Bạch Cư Dị là bậc thầy nhà Đường ở thời khác mà giỏi thơ ca và quy y Phật pháp, thấy Trúc lâm thất hiền thời Tấn là bằng hữu thời khác, tuy thân ở nơi triều chính, mà chí ở lâm tuyền. Ta gặp được hiền chúa, hiền sư, hiền hữu, một ngày mà có ba cuộc tao ngộ, vậy là cuộc đời có ba niềm vui”. Đây là một đoạn miêu tả rất điển hình, nó đã thể hiện quan niệm của trí thức quý tộc Nhật Bản thời Heian đối với văn hoá Trung Quốc như thế nào. Chính vì tầm quan trọng của thư tịch Trung Quốc như vậy, cho nên người Nhật đã tìm nhiều con đường để có được Hán tịch. Mà chủ yếu nhất trong các con đường ấy là dựa vào những trí thức Nhật Bản đến Trung Quốc du học. Những người này khi sang Trung Quốc, họ sưu tầm rất nhiều thư tịch chữ Hán, sau đó đem về Nhật. Đến đầu thế kỷ XI, nữ sĩ Nhật Bản Murashaki Shikibu đã sáng tác tiểu thuyết trường thiên Truyện chàng Genji (Nguyên thị vật ngữ), đây được xem là bộ tiểu thuyết tả thực sớm nhất trên thế giới. Trong bộ tiểu thuyết với 152 tình tiết phát triển truyện này, Murashaki đã dẫn dụng tới 131 đoạn văn trong thư tịch Trung Quốc. Điều này chứng tỏ rằng ở Nhật Bản thời đó, Hán tịch đã được phổ biến rộng rãi. Hơn nữa, thư tịch chữ Hán còn thâm nhập vào quan niệm văn hoá của các trí thức Nhật Bản, trở thành điểm tựa quan trọng không thể thiếu trong tư duy của họ. Bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XII, quyền lực chính trị ở Nhật đi vào tình trạng đa nguyên. Lúc này, các võ sĩ trở thành chủ thể quyền lực, đứng đầu là các Tướng quân (Shôgun). Các tập đoàn này chiến đấu tranh giành quyền lực với nhau hơn 400 năm, người ta thường gọi đây là “Thời Chiến Quốc” trong lịch sử Nhật Bản. Ở Nhật Bản trước Trung thế kỷ, thư tịch chữ Hán chủ yếu nằm trong tay của quý tộc cung đình và tầng lớp trí thức. Nhưng từ thời Trung thế kỷ trở đi, tầng lớp võ sĩ nổi lên và nhiệm vụ của họ lúc này là thâu đoạt quyền lực trong tay của các đại thần của triều đình. Sử Nhật Bản đã gọi tập đoàn cung đình (bao gồm cả tầng lớp quan liêu và trí thức) là “Công gia”, và gọi các tập đoàn võ sĩ do các Shôgun đứng đầu là “Vũ gia”. Trong quá trình vươn lên, “Vũ gia” cố gắng tìm kiếm một loại hình thái tinh thần phù hợp với tình hình đời sống và trạng thái tâm lý của họ. Hay nói một cách đơn giản, vì họ luôn đứng giữa sự sống và cái chết (vì họ là các võ sĩ, chiến binh – ND), cho nên các võ sĩ rất cần một điểm tựa về tinh thần. Mà đối với những tông phái Phật giáo như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Mật tông thì từ sự tín ngưỡng đến thành Phật, các tín đồ phải trải qua một quá trình tu luyện rất dài lâu, phải khổ công nghiên cứu các Phật điển uyên áo, rồi còn phải tham gia các Pháp hội phức tạp khác, do vậy, con đường này rất không thích hợp với họ. Trong khi đó, Thiền tông đang phát triển mạnh ở Trung Quốc với khẩu hiệu “Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” (Vứt bỏ giới đao, lập tức thành Phật). Thứ giáo nghĩa đơn giản, rõ ràng và con đường đắc đạo tốc thành mà Thiền tông rao giảng, đã thu hút được sự chú ý và cảm tình sâu sắc của các Shôgun cũng như Samurai Nhật Bản. Và điều quan trọng hơn nữa là, trong quá trình tranh đoạt quyền lực chính trị, các Shôgun và Samurai cũng muốn nhanh chóng nắm lấy quyền lực tôn giáo. Khi đó, Phật giáo nguyên hữu là một trong những thế lực của phái “Công gia”, cho nên phái “Vũ gia” muốn lấy Thiền tông làm ngọn cờ tín ngưỡng để đối kháng với phái “Công gia”. Bởi được sự ủng hộ của tầng lớp Shôgun và Samurai, nên Thiền tông ở Nhật Bản đã có những bước phát triển lớn lao. Đương thời, các tăng lữ Nhật Bản sang Trung Quốc học Phật pháp, nghiên cứu giáo lý Thiền tông được gọi là “Nhập Tống tăng”, “Nhập Nguyên tăng”. Pháp lý của Thiền tông Trung Quốc đương thời có sự khác biệt rất xa so với các tông phái Phật giáo ngoại truyền khác, nó lại còn có quan hệ với cả Nho học. Từ khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, gặp sự đối kháng của Nho học, hai hệ thống tư tưởng lớn này về cơ bản như “thuỷ hoả bất tương dung” (nước – lửa không dung nhau) cùng tồn tại trong một xã hội. Song, Phật học lúc đó đã thay đổi và lấy Thiền tông làm chủ lưu, Nho học lúc ấy cũng thay đổi, biến thành “Tống học”. Từ đó, Nho – Phật tương bổ cho nhau, những tăng lữ sang Trung Quốc du học đương thời, vừa học Phật lý, lại kiêm luôn cả ngoại học (tức Tống học, lấy học thuyết Trình – Chu làm hạt nhân). Khi các tăng lữ này đem pháp lý Thiền tông về nước, đồng thời họ cũng đem về cả những trước tác tân Nho Tống học của Trung Quốc. Năm 1211, Nhật Bản tăng là Shunjo từ Trung Quốc quay về nước, ông từng học Thiền tham định ở Kính Sơn (Hàng Châu, Trung Quốc). Shunjo đem về hơn 1200 quyển Phật điển, 919 quyển phi Phật điển – cái này nhà Phật gọi là “ngoại điển Hán tịch”. Trong số các “ngoại điển” đó, có Tứ thư tập chú của Chu Hy. Hơn ba mươi năm sau, năm 1247, một người Nhật Bản là Makiko đã trích lấy phần Luận ngữ tập chú trong bộ Tứ thư tập chú của Chu Hy do Shunjo đem về Nhật, và tiến hành khắc in (bản gỗ). Đây là bản khắc in phi kinh Phật đầu tiên ở Nhật và có ý nghĩa như một dấu mốc quan trọng trong lịch sử văn hoá Nhật Bản.