Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam

TÓM TẮT Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi ngành Thông tin - Thư viện (TT-TV) thế giới ứng dụng triệt để công nghệ thông tin (CNTT) để tự động hoá thư viện và phát triển nguồn tài nguyên điện tử thì Thư viện điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế kỉ này,“Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” (Rubin, 2010) đã trở thành tư tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có. Thế giới bước vào kỉ nguyên số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế giới, xu thế phát triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TT-TV. Ngành TT-TV Việt Nam phát triển chậm so với cộng đồng thế giới. Trong khi cả thế giới đã hoàn thiện và phát triển thư viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa ứng dụng máy tính và đại bộ phận bắt đầu xây dựng thư viện điện tử. Điều này là hệ quả của việc nhận thức về giá trị của CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP chưa đúng, mà điển hình nhất là chương trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV không đáp ứng được yêu cầu phát triền nguồn nhân lực để xây dựng thư viện hiện đại nhằm bắt kịp nhịp phát triển với cộng đồng thế giới

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 50 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 75 THƯ VIỆN SỐ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ Ở VIỆT NAM NGUYỄN MINH HIỆP (*) TÓM TẮT Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi ngành Thông tin - Thư viện (TT-TV) thế giới ứng dụng triệt để công nghệ thông tin (CNTT) để tự động hoá thư viện và phát triển nguồn tài nguyên điện tử thì Thư viện điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế kỉ này,“Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” (Rubin, 2010) đã trở thành tư tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có. Thế giới bước vào kỉ nguyên số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế giới, xu thế phát triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TT-TV. Ngành TT-TV Việt Nam phát triển chậm so với cộng đồng thế giới. Trong khi cả thế giới đã hoàn thiện và phát triển thư viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa ứng dụng máy tính và đại bộ phận bắt đầu xây dựng thư viện điện tử. Điều này là hệ quả của việc nhận thức về giá trị của CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP chưa đúng, mà điển hình nhất là chương trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV không đáp ứng được yêu cầu phát triền nguồn nhân lực để xây dựng thư viện hiện đại nhằm bắt kịp nhịp phát triển với cộng đồng thế giới. Từ khoá: thư viện số, nguồn tài nguyên điện tử, nguồn nhân lực ABSTRACT It is since the late years of the last century when the world’s Information - Library (Information - Library) thoroughly applied information technology (IT) to automate the libraries and the electronic resources that the Electronic Library came into being. Since the early years of this century when "The development of Information - Library is associated with the development of IT" (Rubin, 2010) became the guiding ideology, the world’s Information - Library has developed incredibly rapidly. The world entered the digital age and the digital library came into being. Nowadays, the trend of developing digital libraries has become a key part of Information - Library operations all over the world. Vietnam’s Information – Library has developed slowly compared with that of the world. Meanwhile, the world’s Information – Library has perfected and developed digital libraries, not many libraries in Vietnam have had the computer application and the majority of them have just started creating electronic libraries. This is a consequence of the misrecognition of the values of STANDARDIZATION- INTEGRATION, the most typical characteristic of which is that the training program and training quality of Information – Library professionals do not meet the requirements of human resource development in order to build the modern library to keep pace with the development of the world’s Information - Library. Keywords: digital library, electronic resources, human resources 76 Ngày nay, hoạt động TT-TV được thực hiện trong những Cơ quan thông tin (Information Agencies) gồm có thư viện, trung tâm thông tin, trung tâm tài nguyên, trung tâm học liệu, cơ sở lưu trữ, v.v. bao gồm trong năm loại hình thư viện: thư viện quốc gia, thư viện đại học, thư viện chuyên ngành, thư viện công cộng, và thư viện trường học. * Từ đối tượng vật thể (tài liệu in ấn, tài liệu nghe nhìn) mà nói chung là tài liệu đến đối tượng đa phương tiện (tài liệu điện tử) được mang một tên mới tài nguyên (resources) để chỉ tất cả mọi đối tượng thông tin truyền thống và hiện đại, ngành thông tin thư viện đã trải qua ba giai đoạn phát triển: • Quản lí tài liệu; • Quản lí thông tin; • Quản lí tri thức. 1. BA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NGÀNH KHOA HỌC THÔNG TIN- THƯ VIỆN • Quản lí tài liệu Giai đoạn này hiện hữu từ thời xa xưa tương ứng với nghề thư viện. Tuy nhiên ta chỉ tính mốc thời gian kể từ khi Melvil Dewey tổ chức trường dạy nghiệp vụ thư viện đầu tiên tại Đại học Columbia, New York, Hoa Kỳ vào ngày 01/01/ 1887 khai sinh ra ngành Thư viện học (Chan, 2007). Thư viện ngày đó chỉ bao gồm tài liệu in ấn và chúng ta đã dùng một thuật ngữ quen thuộc để gọi là Thư viện truyền thống. • Quản lí thông tin Thư viện là nơi phản ánh các nền văn minh; ý niệm thư viện đã trải qua nhiều giai đoạn và luôn luôn tiến triển để được thích nghi với mọi tình thế. Nhu cầu tìm kiếm thông tin ngày càng cao, thư viện (*) ThS, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. cũng phải thay đổi để đáp ứng được yêu cầu người dùng tin. Trước hết, phải thay đổi quan niệm quản lí. Từ quản lí tài liệu là quản lí vật chất, người thủ thư luôn quan tâm đến kích cỡ, quy mô, phạm vi, không gian cho đến quản lí thông tin là quản lí phi vật chất, người ta chỉ quan tâm đến sự tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả và nội dung tài liệu. Người quản lí thông tin không phải chỉ quan tâm thông tin trong thư viện mình mà còn thông tin ở bên ngoài. Giai đọan Quản lí thông tin manh nha từ đó. Trong giai đoạn này, việc áp dụng máy tính để tự động hoá các công tác thư viện và hoạt động thông tin đã làm tăng khả năng quản lí thông tin rất nhiều. Mạng toàn cầu Internet với sự ra đời của công nghệ Web đã tạo nên một cuộc bùng nổ thông tin. Việc quản lí thông tin thực sự trở thành một công nghệ trong vai trò quản lí các hình thức Thư viện điện tử. Những thành tựu và sự phát triển nhanh chóng của CNTT đã đưa ngành TT-TV đạt đến đỉnh cao của quản lí thông tin và khai sinh ra một ngành mới là Thông tin học. Từ giữa đầu thập niên 1970, với sự kết hợp chặt chẽ giữa Thư viện học và Thông tin học, một ngành học mới ra đời: Khoa học Thông tin và Thư viện (Library and Information Science) tồn tại cho đến ngày này mà ta quen gọi là ngành Thông tin-Thư viện. Như vậy, việc ứng dụng máy tính và mạng viễn thông để tự động hóa toàn bộ công tác thư viện bao gồm việc quản lí tài nguyên điện tử khai sinh ra Thư viện điện tử trong giai đoạn này. • Quản lí tri thức Thông tin trở nên vô cùng thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Tuy nhiên nguồn thông tin ngày càng có khuynh hướng quá tải và hỗn mang, người 77 Quản lí thông tin lại phải dựa vào CNTT để chọn lọc và chỉ phục vụ những thông tin có ý nghĩa và hữu ích được gọi là tri thức. Theo kinh tế gia Hoa Kỳ Branscomb, nếu ví thông tin là bột mì thì tri thức là bánh mì. Giai đoạn Quản lí tri thức được hình thành với việc ứng dụng tối đa công nghệ mới đặc biệt là công nghệ kĩ thuật số – Công nghệ “chế biến bột mì thành bánh mì” và chỉ “quản lí bánh mì”. Thư viện số ra đời nhằm thực hiện công việc đó trong giai đoạn Quản lí tri thức này. 2. TỪ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ ĐẾN THƯ VIỆN SỐ Như trên đã đề cập Thư viện điện tử ra đời từ khi việc ứng dụng máy tính và mạng viễn thông cho ngành TT-TV trở nên có hiệu quả vượt bậc. Đến một lúc chính ngành TT-TV tự đánh giá rằng “Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT”. Điều này được khẳng đ nh trong hai cuộc hội thảo quốc tế (1) "Tài nguyên thông tin Thư viện Đại học cho vốn tri thức Đông Nam Á" tại Thư viện ĐH Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia năm 1997 và (2) “Quản lí thư viện đại học trong tương lai” tại ĐH East Anglia, Norwich, Anh Quốc, năm 1998. Cả hai hội thảo này đều có một đúc kết chung rằng: “Nhờ gắn liền với CNTT, thư viện thế giới nói chung và thư viện đại học nói riêng đang phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có”. Kể từ đó hay chính xác hơn là bắt đầu thiên niên kỉ này, thư viện thế giới đã xác đ nh việc chuẩn hoá cao độ để phát triển đồng bộ và triệt để ứng dụng thành tựu của CNTT để nhanh chóng phát triển. Hình thức Thư viện điện tử dần dần chuyển sang Thư viện số. Đây là giai đoạn mà người ta cho rằng “Hiện nay trên thế giới, xu thế phát triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh hoạt động TT-TV, trong khi phần mềm nguồn mở trở thành một hiện tượng toàn cầu. Giống như nhiên liệu và động cơ trong kĩ thuật, nguồn mở và thư viện số là hai yếu tố không thể tách rời” (Rhino, 2004). Thuật ngữ Thư viện điện tử dần dần biến mất trong những tài liệu về TT-TV cũng như trong giáo trình giảng dạy ngành TT-TV. Từ năm 2005 tất cả những từ điển về Khoa học TT-TV đều không còn có mục từ Electronic Library – Thư viện điện tử mà thay vào đó là Digital Library – Thư viện số. 3. THƯ VIỆN SỐ 3.1. Những khái niệm cơ bản về Thư viện số • Kĩ thuật số (Digital): Hay còn được gọi là Đóng gói thông tin. Chẳng hạn như trước đây mỗi nhà đều sử dụng cần ăng ten để bắt đài tivi. Vì tín hiệu tivi là những sóng điện từ được truyền theo lối liên biến (analog); ngày nay chúng ta dùng tivi kĩ thuật số có nghĩa tín hiệu tivi được đóng gói và truyền theo cáp (cable) nhờ kĩ thuật số. Đối với ngành TT-TV, việc đóng gói thông tin dựa vào công nghệ Web (sử dụng XML và HTML). Như vậy, khái niệm kĩ thuật số, đóng gói thông tin, và công nghệ Web được xem như là một. • Siêu dữ liệu (Metadata): Siêu dữ liệu là dữ liệu có cấu trúc do con người tạo ra để nói đến một dữ liệu khác. Chẳng hạn như tọa độ của một điểm trên trái đất là siêu dữ liệu vì đây là một dữ liệu có cấu trúc được xác đ nh bởi kinh tuyến và vĩ tuyến là những dữ liệu do con người tạo ra để nói đến một dữ liệu khác, đó là v trí của một điểm trên trái đất thật. Đối với ngành TT-TV ta chỉ quan tâm 78 đến Siêu dữ liệu thư t ch (Bibliographic Metadata). Siêu dữ liệu thư t ch hoàn toàn tương đồng với một biểu ghi thư t ch hay nôm na là một phiếu mục lục. Nó bao gồm những thông tin thư t ch như tác giả, nhan đề, chủ đề, từ khoá, vv Chỉ khác nhau một điểm duy nhất là: Phiếu mục lục và cuốn sách thì tách biệt nhau (Phiếu mục lục thì ở trong tủ phiếu; còn sách thì ở trong kho). Trong khi đó siêu dữ liệu thư t ch và nội dung tài liệu đều được đóng gói bằng Công nghệ Web hay Kĩ thuật số cho nên không tách biệt nhau. Một khi người dùng tin có được siêu dữ liệu thì có được nội dung tài liệu. • Bộ sưu tập số (Digital Collection) Tạo nên những bộ sưu tập để xây dựng Thư viện số. Một bộ sưu tập thông tin bao gồm nhiều tài liệu dưới nhiều dạng thức khác nhau: văn bản, hình ảnh, âm thanh, hình ảnh động. Tài liệu là đơn v căn bản từ đó sưu tập thông tin được xây dựng. Một bộ sưu tập có thể chứa nhiều loại tài liệu khác nhau, tuy nhiên cung cấp một giao diện đồng nhất qua đó tất cả các tài liệu có thể được truy cập, mặc dù cách mà tài liệu đó hiển th sẽ tuỳ thuộc vào phương tiện và dạng thức của tài liệu đó. Thông thường bộ sưu tập được tạo nên từ những Phần mềm nguồn mở. • Phần mềm nguồn mở (Open Source Software): Tất cả những phần mềm được phát triển bởi những nhà thầu hay những phần mềm thương mại đều là nguồn đóng, có nghĩa là người phát triển phần mềm nắm giữ mã nguồn. Trong khi đó phần mềm nguồn mở là phần mềm tự do, thường là miễn phí và người sử dụng có được mã nguồn nên có thể: • Tự do chạy chương trình với bất cứ mục đích nào; • Tự do chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu của mình; • Tự do tái phân phối bản sao để giúp người khác sử dụng; • Tự do phát triển chương trình và bán rộng rãi phần phát triển đó nhằm mang đến lợi ích chung cho cộng đồng. 3.2. Định nghĩa Thư viện số Ngày nay người ta quan niệm thư viện số là sự kết hợp những đối tượng vật chất được tiếp cận trong không gian vật chất, với đối tượng điện tử hiện hữu trong không gian điện tử và có thể được truy cập hầu như khắp mọi nơi. Cụ thể hơn, thư viện số ngày nay là sự kết hợp tài nguyên bao gồm không những tài liệu in ấn truyền thống, mà còn có cả sách điện tử và tạp chí điện tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến, và những bộ sưu tập điện tử do thư viện xây dựng hay do nhà thầu cung cấp từ bên ngoài. Rõ ràng thư viện như thế là bao gồm giữa thư viện truyền thống dựa trên tài liệu in ấn với thư viện điện tử thuần túy. Theo từ điển “Dictionary for Library and Information Science” của Joan M. Reitz (2005) thì: “Thư viện số là một thư viện trong đó ngoài tài liệu in ấn và tài liệu dạng thu nhỏ (vi phẩm), có phục vụ độc giả một tỷ lệ quan trọng tài nguyên dạng máy đọc được truy cập qua máy tính được gọi là Tài nguyên số (Digital Resources). Tài nguyên số có thể là tài liệu nội sinh mà cũng có thể được truy cập từ xa qua mạng máy tính. Tiến trình số hoá trong thư viện bắt đầu từ hệ thống mục lục, chỉ mục tạp chí và d ch vụ tóm tắt tài liệu, đến ấn phẩm đ nh kỳ và tài liệu tham khảo, và cuối cùng là sách in”. Những khái niệm và đ nh nghĩa thư viện số như được trình bày ở trên thực chất là xuất phát từ một nhận thức cách mạng hoá quan niệm về thư viện rất được th nh hành ngày nay (Rubin, 2010). Theo đó tất 79 cả những thư viện truyền thống nào có tổ chức phục vụ một số lượng đáng kể tài nguyên số thì được gọi là thư viện số. 3.3. Xây dựng Thư viện số Để xây dựng hay hình thành thư viện số ngoài việc mua sắm tài nguyên số thương mại như CSDL trực tuyến, sách điện tử, tạp chí điện tử, v.v. cũng như liên kết thư viện để chia sẻ tài nguyên số. Chuyên viên thư viện phải thực hiện những công việc sau: • Số hóa tài liệu Số hóa là tiến trình chuyển tải tài liệu thư viện truyền thống, cụ thể là sách và văn bản in ấn sang dạng điện tử và lưu trữ trên máy tính. Có hai giai đoạn trong tiến trình số hóa.  Giai đoạn đầu: Quét hình – Scanning, cho ra sản phẩm số hoá dạng hình, thường có đ nh dạng Bitmap hoặc TIFF.  Giai đoạn hai: Nhận dạng ký tự quang học (OCR – Optical Character Recognition). Là tiến trình cho ra một sản phẩm dạng số hoá văn bản hay là trang web. Cơ bản là các đ nh dạng RTF, Word, hoặc HTML. Trong nhiều hệ thống thư viện số, tài liệu chỉ ở giai đoạn đầu, nghĩa là những gì độc giả thấy chỉ là hình ảnh, thường thì được chuyển sang dạng PDF (Portable Document Format). Đây là dạng thức dùng để mô tả trang giấy trong chương tình trao đổi tư liệu Adobe Acrobat – Phần mềm Adode Acrobat cần phải được cài đặt ở máy nhận để tập tin PDF có thể được hiển th và in ra như dạng gốc. Giai đoạn hai đòi hỏi phải có phần mềm nhận dạng ký tự quang học để chuyển tài liệu dạng hình sang dạng văn bản – là dạng có thể cung cấp truy cập theo bất kỳ một tổ hợp từ nào hay bất kỳ kĩ thuật trích dẫn siêu dữ liệu tự động được đ nh trước. Đồng thời chúng ta có thể chỉnh sửa trên chính văn bản đó. Việc số hóa có thể tự thực hiện trong thư viện hay hợp đồng với nhà thầu bên ngoài. Số hoá là nhằm tạo lập những bộ sưu tập số chuyên ngành. • Xây dựng bộ sưu tập số Đối với nghiệp vụ biên mục hiện đại, để xây dựng những bộ sưu tập số thì chuyên viên thư viện phải Tạo lập Siêu dữ liệu (Metadata Building) và Gặt hái Siêu dữ liệu (Metadata Harvesting): o Tạo lập Siêu dữ liệu: Nhằm tạo lập Bộ Sưu tập số nội sinh. Nếu trong thư viện truyền thống, biên mục viên tạo lập phiếu mục lục hay biểu ghi thư t ch cho độc giả tra cứu vào vốn tài liệu in ấn trong kho sách; thì trong Thư viện số, biên mục viên tạo lập Siêu dữ liệu để độc giả truy cập vào bộ sưu tập chuyên ngành trongKho số (Digital repository) đặt tại máy chủ của thư viện – đó được gọi là tài nguyên số nội sinh. o Gặt hái Siêu dữ liệu: Nhằm tạo lập những Bộ sưu tập ảo. Bằng phần mềm chuyên dụng hay phần mềm nguồn mở, chuyên viên thư viện tìm kiếm và thu gom những siêu dữ liệu của những tài liệu phù hợp với đề tài mình tìm kiếm khắp nơi trong thế giới mạng để tạo lập những Bộ sưu tập chuyên ngành chỉ chứa những siêu dữ liệu. Đây là hình thức thư viện ảo rất th nh hành trong thế giới thư viện số ngày nay, đặc biệt là trong những thư viện đại học. 3.4. Thư viện số với vấn đề bản quyền Sưu tầm thông tin và làm cho thông tin đó trở nên phổ biến hơn đối với người khác là một điều liên quan đến vấn đề xã hội. Những người xây dựng thư viện số phải am hiểu quyền sở hữu trí tuệ để hành động một cách có trách nhiệm và đúng luật xung quanh những ứng dụng cụ thể của mình. 80 - Thư viện số có thể làm cho việc truy cập trở nên rộng rãi hơn thư viện truyền thống. Việc truy cập này mang những đặc trưng: - Truy cập thông tin trong thư viện số nói chung ít b kiểm soát hơn tiếp cận sưu tập in ấn trong thư viện truyền thống; Đưa thông tin vào thư viện số là có khả năng làm cho thông tin đó trở nên phổ biến ngay đối với một số lượng độc giả hầu như vô hạn. Muốn xây dựng thư viện số thì phải số hoá tài liệu. Bản quyền chính là yếu tố quan trọng nhất mà chúng ta cần chú ý đặc biệt. Một số vấn đề cần xem xét trước khi quyết đ nh số hoá tài liệu: - Nếu tác phẩm được số hóa ở miền cộng (không có bản quyền) thì không phải xin phép. Dĩ nhiên kết quả số hoá của chúng ta cũng không được bảo vệ bản quyền, trừ phi kết quả của ta nhiều hơn bản gốc; - Nếu tài liệu được tặng cho cơ sở của ta để số hóa và người tặng có bản quyền, thì chúng ta tiến hành số hoá, tuy nhiên cần phải yêu cầu người tặng cung cấp cho mình quyền được số hoá – có thể bằng một mẫu giấy có ghi “quyền sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích chung của cơ sở, dưới bất kỳ phương tiện nào”. Nếu muốn số hoá tài liệu mà không rơi vào hai trường hợp trên thì ta phải cân nhắc thử việc số hóa của chúng ta có phải là một việc làm có lợi ích chung mà không xâm phạm lợi ích của người khác. Đây là một điều khó về mặt pháp lí. Cuối cùng nếu chúng ta không chắc chắn với điều cân nhắc trên thì ta phải tiến hành xin phép để được cấp phép thực hiện số hóa. Tóm lại, để tiến hành xây dựng thư viện số, ta phải lưu ý đến vấn đề bản quyền. Những người thực hiện phải cam kết hiểu biết đầy đủ về bản quyền và nhận thức sâu sắc rằng giấy phép là rất cần thiết để chuyển đổi tài liệu không thuộc miền công cộng. 4. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ Ở VIỆT NAM Việc đánh giá “Sự phát triển ngành TT- TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với cộng đồng thư viện thế giới trong việc nhanh chóng phát triền ngành TT-TV nói chung và hình thành thư viện số nói riêng. Từ đó, rất nhiều đổi mới trong ngành TT-TV được thực hiện, mà đổi mới cơ bản nhất là đào tạo. Hầu hết những cơ sở đào tạo ngành TT- TV đều được chuyển sang giảng dạy trong môi trường CNTT hay kĩ thuật. Chẳng hạn như ĐH Tin học Brighton, Anh Quốc; ĐH Kĩ thuật Nangyang, Singapore, ĐH Thương mại điện tử Victoria, New ealand, v.v. Ở Hoa Kỳ thì người ta đưa CNTT vào trường TT-TV. Nói chung chương trình đào tạo ngành TT-TV phải đặt nặng CNTT nhằm đào tạo đội ngũ chuyên viên thư viện am hiểu CNTT để đảm đương vai trò “Đứng giữa lãnh đạo và nhà thầu” trong công việc hiện đại hoá thư viện. Ở Việt Nam, việc phát triển ngành TT- TV nói chung và thư viện số nói riêng gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn cơ bản như sau: 4.1. Chậm đổi mới Theo nhà thư viện học người Nga danh tiếng v.v. Xcvortxov, trong giáo trình “Thư viện học đại cương”, được giảng dạy tại Nga, thì nền Thư viện học thế giới được chia thành 5 giai đoạn. Theo đó, ở giai đoạn (4) bước sang thế kỉ XX đã hình thành một sự phân đôi giữa thư viện học Xã hội chủ nghĩa và thư viện học Tư bản chủ nghĩa; đến nay (thế kỉ XXI) là giai đoạn hợp nhất (5) – Giai đoạn của sự phát triển thư viện như một môn khoa học thống 81 nhất gắn liền với công nghệ thông tin. Ngành TT-TV Việt Nam đã từng phát triển theo hướng thư viện Xã hội chủ nghĩa, cụ thể là theo Liên Xô cũ, thì trong giai đoạn hợp nhất hiện nay gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nhận thức về sự chuẩn hoá và đổi mới nghiệp vụ do đó chậm phát triển. Bản thân ngành TT-TV Nga đã nhanh chóng thay đổi và hội nhập với công đồng thư viện thế giới. Công đồng thế giới ngày nay đang phát triển theo khuynh hướng toàn cầu hoá. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là mở cửa. Nếu chúng ta không hội nhập thì chúng ta
Tài liệu liên quan