Thuật ngữ tài chính tiền tệ: Tài sản cố định

Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm) Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thi ết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành.) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ.

pdf14 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thuật ngữ tài chính tiền tệ: Tài sản cố định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm) Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ. Đặc điểm của TSCĐ : tuổi thọ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị của TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều được gọi là TSCĐ, thực tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng. Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm: - Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định), thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết bị; phương tiện vận tải; dụng cụ văn phòng... -Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả... -Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Mọi hợp đồng thuê tài sản cố định nếu không thoả mãn các quy định về thuê tài chính đều là tài sản cố định thuê hoạt động. - Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các loại; vốn góp liên doanh; tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v... - Tài sản cố định dở dang: là các TSCĐ hữu hình hoặc vô hình đang trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng và được xếp vào mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Ngoài ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện cũng được xếp vào TSCĐ. Tài sản(Asset) 1. Một tài nguyên có giá trị kinh tế được một cá nhân, một tổ chức hay một quốc gia sở hữu hoặc quản lý với hy vọng thu được lợi nhuận từ chúng. 2. Một khoản trong bản cân đối đại diện cho những gì công ty sở hữu. Theo Investopedia: 1. Tài sản được mua để tăng giá trị một công ty hoặc để tạo thuận lợi cho hoạt động của công ty. Có thể nghĩ về tài sản như một thứ có thể sản sinh ra lưu lượng tiền mặt, cho dù nó là trang thiết bị sản xuất của một công ty hay căn hộ cho thuê của một cá nhân. 2. Trong kế toán, tài sản có thể là tài sản ngắn hạn hoặc tài sản cố định. Ngắn hạn nghĩa là tài sản sẽ được tiêu thụ trong vòng 1 năm. Thông thường, chúng bao gồm: tiền mặt, các khoản phải thu, hàng trong kho. Tài sản cố định là những tài sản sẽ đem lại lợi ích trong vòng lâu hơn 1 năm, như trang thiết bị, nhà cửa, bất động sản,... Tài sản vô hình (Intangible asset) Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Ngày nay quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền, bí quyết kĩ thuật, thương hiệu, uy tín... là những tài sản vô hình phổ biến của doanh nghiệp. Có thể phân biệt được một cách rõ ràng một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không thì phụ thuộc vào các đặc tính của tài sản đó. Uy tín của công ty có thể coi là một tài sản không xác định vì nó luôn gắn liền với sự tồn tại của công ty chừng nào công ty còn tồn tại. Tuy nhiên nếu công ty kí kết hợp đồng sử dụng bằng phát minh sáng chế của một công ty khác và không có ý định kéo dài hiệu lực của hợp đồng thì công ty chỉ được sử dụng bằng phát minh sáng chế này trong một thời hạn xác định. Khi đó bằng phát minh sáng chế trở thành một tài sản vô hình của công ty. Mặc dù tài sản vô hình không có hình thái vật chất cụ thể như các trang thiết bị máy móc nhà xưởng khác của công ty nhưng nó lại rất có giá trị đối với công ty và có thể trở thành nhân tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Ví dụ một công ty như Coca-Cola khó có thể đạt được vị trí như hiện tại nếu không có sự hỗ trợ tích cực của các nhãn hiệu. Nhãn hiệu này dù không có hình thái vật chất cụ thể để có thể cầm nắm được song nó lại được thừa nhận, được nhiều người biết đến, và có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng doanh số bán hàng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế việc sở hữu một nhãn hiệu mạnh là điều rất có ý nghĩa đối với các công ty lớn như Coca-Cola. Hàng hóa vật tư sản xuất (Commodities) Cuộc sống ngày nay phụ thuộc vào vật liệu thô - các sản phẩm duy trì hoạt động của con người và hoạt động kinh doanh. Việc dự đoán các sản phẩm này đáng giá bao nhiêu sẽ là nhân tố kích hoạt thị trường futures. Hàng hoá trên thị trường thường là nguyên nhiên vật liệu thô làm vật tư cho sản xuất: lúa mì làm bánh mì, vàng bạc làm đồ trang sức, dầu để chế biến xăng, nhớt và hàng nghìn các sản phẩm khác. Phần lớn các nhà sản xuất và người sử dụng mua, bán các hàng hoá này trên thị trường tiền mặt, thường được biết đến dưới cái tên thị trường thanh toán ngay (cash market) do hàng hoá có giá tiền mặt sẽ phải được thanh toán ngay. Hàng tồn kho (Inventory) Hàng tồn kho bao gồm: * Nguyên liệu đầu vào * Hàng hoá đang trong quá trình sản xuất * Hàng hoá thành phẩm Tất cả những thứ này được coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ được đem ra bán. Nếu để tồn hàng tồn kho quá lâu thì sẽ làm ảnh hưởng không tốt tới quá trình kinh doanh, bởi vì doanh nghiệp sẽ phải tốn chi phí dự trữ, chi phí thanh lý hay cải tiến hàng bị lỗi thời, và thanh lý hàng hư hỏng. Tuy nhiên, việc không dự trữ đủ hàng tồn kho cũng là một rủi ro bởi vì doanh nghiệp có khả năng đánh mất những khoản doanh thu bán hàng tiền năng hoặc thị phần nếu sau này giá lên cao mà doanh nghiệp không còn hàng để bán. Trong kế toán để tính toán giá trị của hàng tồn kho người ta hay sử dụng hai phương pháp là LIFO (last in, first out)-vào sau tính trước; và FIFO (first in, first out)-vào trước tính trước. Kinh tế học vi mô (Microeconomics) Kinh tế học vi mô là một nhánh (hay phần nội dung) đặc biệt quan trọng của kinh tế học, tập trung nghiên cứu hành vi và sự tác động qua lại của các thành phần bên trong nền kinh tế, bao gồm hai bộ phận trọng yếu là các hộ tiêu dùng (đại diện bởi các cá nhân) và các công ty. Nhánh kinh tế học vi mô làm rõ phương thức và xu hướng các cá nhân và công ty ra quyết định tiêu dùng, cạnh tranh, ra quyết định sản xuất, liên kết-hợp tác, đổi mới công nghệ. Đồng thời nó cũng nghiên cứu sự tác động qua lại giữa nhóm các cá nhân và các công ty với nhau. Như vậy, kinh tế học vi mô tập trung nghiên cứu các trạng thái và hành vi của các bộ phận đặc trưng của một nền kinh tế, cũng như xu hướng các bộ phận này tác động lẫn nhau, hình thành kết cục là trạng thái của chỉnh thể kinh tế. Báo cáo tài chính (Financial statement) Báo cáo tài chính là các bản ghi chính thức về tình hình các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính cung cấp một cái nhìn tổng thể về điều kiện tài chính của doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn. Có 4 loại báo cáo tài chính cơ bản. 1. Bảng cân đối kế toán: Báo cáo về tài sản và nợ của công ty trong một thời điểm xác định. 2. Báo cáo thu nhập: còn gọi là Báo cáo lợi nhuận và lỗ, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì. 3. Báo cáo lợi nhuận giữ lại: Giải thích các thay đổi trong lợi nhuận giữ lại trong một thời kì. 4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo về các hoạt động dòng tiền của một công ty, đặc biệt là các hoạt dộng đầu tư, cấp vốn... Đối với các công ty lớn, những báo cáo này thường phức tạp và có thể gồm cả Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements) và các thảo luận và phân tích của đội ngũ quản lí. Thuyết minh thường mô tả các khoản mục thên Bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và báo cáo lưu chuyển tiền tệ một cách chi tiết hơn. Thuyết minh báo cáo tài chính được coi là một phần không thể thiếu của các báo cáo tài chính. Phương pháp kế toán phát sinh (Accrual Accounting) Phương pháp kế toán phát sinh là phương pháp kế toán ghi nhận hoạt động và vị thế của công ty thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp. Kế toán ghi nhận tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ dù nghiệp vụ ấy có giao dịch bằng tiền mặt hay không. Tính hợp lý của phương pháp này được giải thích qua nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí tại thời điểm giao dịch xảy ra hơn là tại thời điểm xảy ra sự thanh toán tiền giữa doanh nghiệp và người bán, người mua. Phương pháp này cũng cho phép các dòng tiền vào/ ra hiện tại có thể kết hợp với các dòng tiền vào/ ra trong tương lai nhằm đưa ra một bức tranh chính xác hơn về tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Phương pháp kế toán phát sinh được xem là phương pháp thực hành kế toán tiêu chuẩn đối với hầu hết các doanh nghiệp. Phương pháp này cho thấy một bức tranh chính xác hơn về vị thế hiện tại của doanh nghiệp, khác với phương pháp kế toán tiền mặt chỉ ghi nhận giao dịch khi có giao dịch tiền mặt xảy ra. Càng ngày phương pháp này càng được ưa chuộng và thể hiện tính ưu việt hơn khi số lượng giao dịch của doanh nghiệp càng nhiều và càng phức tạp hơn. Nhu cầu sử dụng một phương pháp kế toán có thể phản ánh chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên cấp thiết. Việc bán hàng chịu cho khách hàng cũng như với các dự án mà các dòng doanh thu sẽ trải dài qua một thời gian chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính công ty tại thời điểm giao dịch. Do đó, những hoạt động như vậy nên được phản ánh trên các báo cáo tài chính trong cùng thời gian báo cáo mà những giao dịch này xảy ra. Ví dụ, khi doanh nghiệp bán Tivi cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, phương pháp kế toán tiền mặt và kế toán phát sinh sẽ ghi nhận sự kiện này khác nhau. Doanh thu bán Tivi sẽ chỉ được ghi nhận chừng nào doanh nghiệp nhận được tiền do khách hàng trả. Do vậy, nếu Tivi được mua dựa trên thẻ tín dụng, doanh thu này có thể sẽ không được ghi nhận mãi cho đến tháng sau hoặc năm sau. Tuy nhiên với góc nhìn của phương pháp kế toán phát sinh thì ghi nhận như phương pháp kế toán tiền mặt sẽ không chính xác bởi vì tuy doanh nghiệp chưa nhận được tiền mặt nhưng nghiệp vụ bán hàng đã xảy ra và đã hoàn tất. Do vậy, phương pháp kế toán phát sinh sẽ ghi nhận doanh thu ngay tại thời điểm quyển sở hữu cái Tivi được chuyển sang cho khách hàng. Thậm chí ngay cả khi tiền mặt chưa chuyển vào tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp thì kế toán vẫn ghi nhận doanh thu trên tài khoản theo dõi “ các khoản phải thu”, và do đó vẫn phản ánh chính xác doanh thu hoạt động của doanh nghiệp Kế toán (Accounting) Kế toán là một chức năng của doanh nghiệp, thường nằm trong bộ phận chức năng là Phòng hay Ban Kế toán. Các cơ quan hành chính và chính phủ cũng có, nhưng trong phạm vi tra cứu này, chúng ta chỉ đề cập tới chức năng kế toán ở doanh nghiệp. Kế toán được chia thành hai mảng quan trọng nhất là Kế toán Tài chính và Kế toán Quản trị (trước kia còn gọi là Kế toán Giá thành, mặc dù khái niệm này hẹp). Mặc dù cùng có tên là Kế toán nhưng chúng đóng vai trò hoàn toàn khác nhau. Thông thường nhận thức chung của xã hội về kế toán là ám chỉ Kế toán Tài chính. Nhiệm vụ chính của Kế toán tài chính là lưu giữ chứng từ, kiểm tra đối chiếu, ghi chép khoản mục và các bút toán đối với giao dịch liên quan tới tài chính doanh nghiệp, thực hiện các chức năng báo cáo. Các hành vi của kế toán tài chính thường được quản chế rất chặt chẽ bởi cả doanh nghiệp lẫn cơ quan hành pháp liên đới, ở Việt Nam là Bộ Tài chính. Đối với các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam, các hành vi nghiệp vụ kế toán còn được Ủy ban chứng khoán và Trung tâm Giao dịch chứng khoán giám sát chặt chẽ. Các báo cáo kế toán quan trọng nhất bao gồm: 1. Bảng cân đối kế toán; 2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; 3. Báo cáo lưu chuyển tiền mặt Ngoài ra tùy theo Qui chế quản lý tài chính riêng biệt của từng công ty, Kế toán tài chính có thể còn cần chuẩn bị các loại báo cáo riêng: Báo cáo tình hình góp vốn cổ đông và thay đổi cổ đông; Báo cáo sử dụng tiền mặt; Báo cáo sử dụng nguồn quỹ; Báo cáo về tình hình đầu tư tài sản ngắn hạn và dài hạn; Báo cáo về tình hình sử dụng tài sản cố định; Báo cáo về tiến độ đầu tư các hạng mục xây dựng cơ bản lớn, v.v.. Người phụ trách Kế toán Tài chính thường giữ chức danh Kế toán trưởng. Kế toán Quản trị thực hiện một chức năng khác: Phân tích thông tin tài chính, sử dụng ý kiến chuyên gia để phục vụ Ban lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định quản lý cao nhất. Một ví dụ là quyết định có nên tiếp tục sản xuất một mặt hàng chủ lực sau thời gian tập hợp các thông số thị trường và đo được hiệu quả của mặt hàng đó. Kế toán Quản trị cũng thường có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông số và ý kiến đối với đầu tư chiến lược. Người phụ trách Kế toán Quản trị cao nhất thường giữ chức danh Giám đốc tài chính. Kế toán nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy quản lý doanh nghiệp vì các báo cáo dù là kế toán tài chính hay quản trị đều đưa ra các thông tin quan trọng, phản ánh bức tranh hoạt động kinh doanh, và rất nhạy cảm đối với lãnh đạo, nhân viên và cổ đông. Các báo cáo được lập theo chuẩn mực chung rất dễ quan sát và tìm hiểu thông tin. Các số liệu có thể so sánh các doanh nghiệp với nhau, với thị trường và với quốc tế, chỉ cần điều chỉnh một số điểm nhất định. Chính vì thế, kế toán còn được xem là "ngôn ngữ của kinh doanh". Kế toán còn là một môn học trong chương trình giảng dạy kinh tế và kinh doanh của các trường đại học-cao đẳng. Trong các trường học, bộ môn kế toán thường được chia thành nguyên lý kế toán và nghiệp vụ sâu về kế toán. Học sinh thường phàn nàn đây là môn học khô khan, tuy nhiên thực tế đây lại là môn học rất hữu ích và thú vị. Cảm giác khô khan chủ yếu là do cách dạy và cách học. Chi phí quản lí (Administrative expense) Chi phí quản lí là chi phí xảy ra trong quá trình quản lí chung của doanh nghiệp. Ví dụ bao gồm lương quản lí, tiền thuê văn phòng và trang thiết bị cho đội ngũ quản lí, chi phí bảo hiểm, các dịch vụ được sử dụng cho đội ngũ quản lí, trang thiết bị mất giá. Ví dụ, trang thiết bị mất giá 1000 đôla, trong đó 60% liên quan đến bán hàng và 40% liên quan đến quản lí tính theo mét vuông hoặc tính theo lượng nhân viên, thì báo cáo thu nhập sẽ phát biểu rằng 600 đôla là chi phí bán hàng và 400 đôla là chi phí quản lí. Thuyết minh báo cáo tài chính (Notes to the financial statements) Thuyết minh báo cáo tài chính là những thông tin bổ sung được đưa trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuyết minh báo cáo tài chính đưa ra các chi tiết và thông tin thêm đã bị bỏ qua trong các báo cáo (4 loại báo cáo tài chính chính), như Bảng cân đối kế toán và Báo cáo thu nhập. Việc này được thực hiện với mục đích làm rõ báo cáo tài chính, thông thường do các thuyết minh này khá dài, vì vậy nếu chúng được đưa vào các báo cáo tài chính, chúng sẽ làm rối các báo cáo. Việc đọc thuyết minh là rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Những thuyết minh này bao gồm các thông tin quan trọng như phương pháp kế toán được sử dụng để ghi chép và báo cáo các giao dịch, chi tiết kế hoạch trợ cấp, quyền chọn cổ phiếu, thông tin bồi thường thưởng phạt. Tất cả các thông tin này sẽ ảnh hưởng tới phần lợi nhuận hay cổ tức mà cổ đông được nhận khi đầu tư vào một công ty. Dòng tiền chiết khấu Dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow - DCF ).DCF là một cách thức để đánh giá mức độ hấp dẫn của một cơ hội đầu tư. Các nhà phân tích thường dùng phương thức này để quy dòng tiền tương lai của một dự án cụ thể về giá trị hiện tại từ đó đánh giá được mức độ khả thi của một dự án đầu tư. Nếu như dòng tiền tương lai sau khi qua chiết khấu có giá trị lớn hơn chi phí đầu tư hiện tại của dự án thì đây có thể sẽ là một cơ hội đầu tư tốt. Có rất nhiều biến số ẩn chứa trong việc phân tích dòng tiền và dòng tiền chiết khấu. Tuy việc tính toán DCF là rất phức tạp song mục đích của việc phân tích DCF chỉ nhằm đánh giá lượng tiền mà nhà đầu tư có thể thu được từ một hoạt động đầu tư và từ đó điều chỉnh giá trị của tiền tệ theo thời gian. Việc ứng dụng DCF mang lại nhiều tiện ích, tuy nhiên nó cũng có những sai sót nhất định. DCF chỉ đơn thuần là một công cụ tính toán, vì vậy không thể tránh được những sai lệch. Một sự thay đổi nhỏ trong yếu tố đầu vào có thể dẫn tới thay đổi lớn về trị giá của một công ty. Người ta thường cố gắng điều chỉnh dòng tiền đạt được một hạn mức nhất định. Mọi người thường không hiểu được vì sao các nhà phân tích chứng khoán lại có thể định giá một công ty tương đối giống nhau hay tại sao mà mức giá họ dự đoán lại khác nhau nhiều đến thế. Câu trả lời đơn giản nằm ở chỗ họ sử dụng phương thức DCF như thế nào? Tuy nhiên nếu bạn là nhà đầu tư bạn không nhất thiết phải dựa trên nhận định của các chuyên gia phân tích. Bằng việc so sánh đối chiếu, sử dụng đúng công cụ, chính bạn cũng có thể định giá một công ty bằng phương pháp DCF. Nói một cách đơn giản thì phương pháp DCF nhằm tìm ra giá trị hiện tại của công ty dựa trên việc phân tích lượng tiền mà công ty đó có khả năng tạo ra trong tương lai. Ví dụ nếu ai đó yêu cầu bạn lựa chọn giữa việc nhận 100USD vào ngày hôm nay và nhận đúng số tiền đó sau 1năm. Chắc bạn sẽ chọn cách thứ nhất vì bạn biết rằng bạn có thể đầu tư và kiếm được hơn 100 USD sau 1 năm. Điều đó có nghĩa là số tiền mà bạn sẽ có trong tương lai sẽ trị giá bằng 100 USD ngày hôm nay - hay nói cách khác giá trị chiết khấu dòng tiền là 100 USD. Tính toán cho toàn bộ số tiền mà bạn kì vọng công ty sẽ tạo ra trong tương lai, bạn sẽ biết được giá trị hiện tại của công ty là bao nhiêu. Với tư cách là một nhà đầu tư, bạn sẽ rất có lợi nếu sử dụng thành thạo phân tích DCF. Đối với những nhà đầu tư mới gia nhập sân chơi đây là công cụ để kiểm tra lại mức giá trên các bản báo cáo của người môi giới chứng khoán. Các phân tích DCF yêu cầu phải tính đến các nhân tố ảnh hưởng đến công ty như tốc độ tăng doanh thu trong tương lai, lợi nhuận biên...Ngoài ra cũng cần tính toán tỉ lệ chiết khấu, nhân tố phụ thuộc nhiều vào tỉ lệ lãi suất phi rủi ro, chi phí huy động vốn, và các rủi ro đối với cổ phiếu của công ty.Tất cả các nhân tố này sẽ cho bạn những nhận định đúng đắn về các nhân tố ảnh hưởng