Trong nền kinh tế, các trung gian tài chính bảo hiểm là một kênh huy động vốn đầu tư không thể thiếu và đầy tiềm năng. Bảo hiểm vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa
đảm bảo và ổn định đời sống kinh tế - xã hội ở mỗi nước.Thị trường bảo hiểm bùng nổ, vấn đề đầu tư tài chính của công ty bảo hiểm đã và đang trở thành vấn đề sống còn .
Đầu tư tài chính hiệu quả giúp công ty bảo hiểm bảo toànquỹ tài chính bảo hiểm, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và đứng vững trong cạnh tranh. Thêm nữa, thu nhập từ đầu tư tài chính còn là nguồn để công ty bảo hiểm thực hiện các cam kết với khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của các sản phẩm bảo hiểm.Trên thế giới, các công ty bảo hiểm lớn xem đầu tư tài chính là hoạt động mang lại thu nhập chính và luôn được coi trọng.Có thể nói hoạt động đầu tư của CTBH có vai trò rất lớn không những đối với CTBH mà còn đối với toàn bộ tư tài chính của nền kinh tế.
Đánh giá sự quan trọng của hoạt động đầu tư tài chính trong các doanh nghiệp bảo hiểm nhóm chúng tôi đã thực hiện bài nghiên cứu nhỏ về “Thực trạng đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm”.Với nhận thức giới hạn và thời gian thực hiện còn hạn chế bài viết không tránh khỏi những thiếu sót.Rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý chân thành của những người quan tâm đến vấn đề này.
12 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2270 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế, các trung gian tài chính bảo hiểm là một kênh huy động vốn đầu tư không thể thiếu và đầy tiềm năng. Bảo hiểm vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa
đảm bảo và ổn định đời sống kinh tế - xã hội ở mỗi nước.Thị trường bảo hiểm bùng nổ, vấn đề đầu tư tài chính của công ty bảo hiểm đã và đang trở thành vấn đề sống còn .
Đầu tư tài chính hiệu quả giúp công ty bảo hiểm bảo toànquỹ tài chính bảo hiểm, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và đứng vững trong cạnh tranh. Thêm nữa, thu nhập từ đầu tư tài chính còn là nguồn để công ty bảo hiểm thực hiện các cam kết với khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của các sản phẩm bảo hiểm.Trên thế giới, các công ty bảo hiểm lớn xem đầu tư tài chính là hoạt động mang lại thu nhập chính và luôn được coi trọng.Có thể nói hoạt động đầu tư của CTBH có vai trò rất lớn không những đối với CTBH mà còn đối với toàn bộ tư tài chính của nền kinh tế.
Đánh giá sự quan trọng của hoạt động đầu tư tài chính trong các doanh nghiệp bảo hiểm nhóm chúng tôi đã thực hiện bài nghiên cứu nhỏ về “Thực trạng đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm”.Với nhận thức giới hạn và thời gian thực hiện còn hạn chế bài viết không tránh khỏi những thiếu sót.Rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý chân thành của những người quan tâm đến vấn đề này.
Xin Chân Thành Cảm Ơn
LÝ LUẬN CHUNG
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP BẢO
HIỂM :
1.1.Khái niệm về hoạt động đầu tư trong công ty bảo hiểm
Bảo hiểm là sự chia nhỏ tổn thất của một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng gặp phải những rủi ro tương tự bằng cách thu của họ một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm từ đó bồi thường (chi trả) cho họ những thiệt hại về tài chính do rủi ro bất ngờ gây nên .
Bảo hiểm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm được thutrước, còn cam kết trả tiền bảo hiểm được thực hiện sau. Giá trị sử dụng của sản phẩm bảo hiểm chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian nhất định. Như vậy công ty bảo hiểm (CTBH) có trong tay một quỹ tài chính tập trung khá lớn, nhưng quỹ này sẽ không được sử dụng để bồi thường ngay nên CTBH có
thể sử dụng lượng tiền nhàn rỗi này để đầu tư .
Như vậy: Đầu tư tài chính của một công ty bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư theo luật định. Mỗi nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực đầu tư của CTBH.
1.2.Vai trò của hoạt động đầu tư trong CTBH .
CTBH không chỉ có nhiệm vụ thu chi quỹ tài chính bảo hiểm mà còn phải phát triển quỹ tài chính này. Đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty bảo hiểm. Để đáp ứng hai mục tiêu duy trì khả năng thanh toán và nâng cao khả năng sinh lợi ,hoạt động đầu tư tại các công ty bảo hiểm phải thể hiện vai trò :
Bảo đảm mang lại lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm :
Hoạt động đầu tư đóng góp vào sự tăng trưởng thu nhập và lợi nhuận của của công ty bảo hiểm, từ đó giúp công ty bảo hiểm mở rộng quy mô, tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đồng thời còn giúp các doanh nghiệp bảo hiểm bù đắp sự mất giá của đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát .
Bảo đảm được lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm :
-Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của công ty bảo hiểm trên thị trường. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp công ty bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó tạo lợi thế so với đối thủ cạnh tranh.
-Hoạt động đầu tư giúp CTBH thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình đối với người tham gia bảo hiểm. Bởi vì bảo hiểm không chỉ có tính rủi ro mà còn có tính tiết kiệm. Do đó việc đầu tư có hiệu quả không đơn thuần là phát triển quỹ tài chính mà còn là trách nhiệm của CTBH để đảm bảo cho khách hàng được trả lãi.
-Thu nhập từ đầu tư là nguồn tài chính để công ty bảo hiểm thực hiện các cam kết với khách hàng, tăng các khoản lợi tức chia thêm cho các hợp đồng bảo hiểm, qua đó nâng cao tính hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm .
NGUYÊN TẮC ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM
Các nguyên tắc mà luật pháp về bảo hiểm ở rất nhiều nước đặt ra với hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm là an toàn, sinh lợi và đảm bảo tính thanh khoản.
2.1.Nguyên tắc an toàn
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu và bảo toànnguồn vốn sử dụng.
Hoạt động đầu tư luôn đứng trước những rủi ro như :
w Rủi ro về lãi suất
w Rủi ro tín dụng
w Rủi ro thị trường
w Rủi ro tiền tệ
w Rủi ro biến động giá trong đầu tư chứng khoán .
Khi tiến hành hoạt động đầu tư, các công ty bảo hiểm cần chú ý đến tất cả những rủi ro trên để hoạt động đầu tư được hiệu quả hơn.Trước những rủi ro đó việc đảm bảo an toàn vốn là rất quan trọng , nó đảm bảo khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách hàng từ đó tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này yêu cầu công ty bảo hiểm phải
đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình nhằm phân tán và giảm thiểu những rủi ro
có thể gặp phải.
Nguyên tắc an toàn được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp.Cụ thể như sau :
Điều 98,Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành năm 2000 quy định doanh nghiệp bảo hiểm được đầu tư vào những lĩnh vực sau:
w Mua trái phiếu chính phủ;
w Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp;
w Kinh doanh bất động sản;
w Góp vốn vào các doanh nghiệp khác;
w Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
w Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
(trích điều 98-Luật kinh doanh bảo hiểm)
2.2.Nguyên tắc sinh lời:
Một trong những mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư là tạo ra lợi nhuận.Lợi nhuận cao là mục tiêu của tất cả mọi doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thị trường. Với công ty bảo hiểm, lợi nhuận là rất cần thiết giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh tài chính, đứng vững trong cạnh tranh và thực hiện các chiến lược của mình. Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí và mở rộng phạm vi bảo hiểm.
Tóm lại đây là kết quả cuối cùng mà công ty bảo hiểm theo đuổi . Tuy nhiên, muốn thu được tỷ suất lợi nhuận cao thì rủi ro khi đầu tư cũng tăng theo. Vì vậy nhà quản lý đầu tư cần nghiên cứu sao cho hoạt động đầu tư vừa đảm bảo nguyên tắc an toàn lại vừa đem lại mức lợi nhuận như mong muốn.
2.3.Nguyên tắc thanh khoản.
Khả năng thanh toán là khả năng mà công ty bảo hiểm có thể sử dụng các tài sản của mình để đáp ứng các trách nhiệm thanh toán đã đến hạn. Do các khiếu nại của các CTBH rất khó dự đoán nên họ phải giữ một tỷ lệ đầu tư nhất định vào các hạng mục đầu tư có tính thanh khoản cao để đảm bảo thanh toán ngay khi cần thiết.
Song song với mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu đảm bảo khả năng thanh toán.Thực tế hai mục tiêu này thường có sự đánh đổi lẫn nhau: Khi doanh nghiệp bảo hiểm muốn tăng lợi nhuận thì phải chấp nhận tăng khả năng rủi ro, nếu rủi ro thực tế xảy ra thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ bị đe doạ. Do đó việc đầu tư của công ty bảo hiểm phải đảm bảo có tính thanh khoản hợp lý vì công ty bảo hiểm có thể phải thanh toán cho khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
¯ Tất cả các nguyên tắc đầu tư cần được áp dụng một cách linh hoạt tuỳ thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào.
Đầu tư của công ty bảo hiểm từ các nguồn vốn nợ (như các quĩ Dự phòng nghiệp vụ ) phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các nguyên tắc đầu tư trên. Bởi vì đây không phải là tiền của công ty bảo hiểm mà là khoản nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Các nguyên tắc đầu tư trên đòi hỏi các công ty bảo hiểm nhân thọ cần đa dạng hoá các hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư thích hợp với quy mô của doanh nghiệp cũng như phù hợp với điều kiện thị trường.
3. DANH MỤC ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY BẢO HIỂM :
3.1.Hình thức đầu tư trong CTBH :
3.1.1.Cho vay có thế chấp
Đối với CTBH , hoạt động đầu tư thông qua cho vay có vai trò rất quan trọng thể hiện ở những đặc điểm sau:
§ Tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính
§ Tạo thu nhập ổn định cho CTBH
§ Cung cấp cho xã hội một kênh huy động vốn
§ Góp phần khuyến khích việc tiêu thụ các sản phẩm bảo hiểm
Với tính chất là một công cụ đầu tư, khi tiến hành cho vay, các công ty bảo hiểm cũng phải chịu một số hạn chế nhất định như hạn chế đối với số tiền tối đa được phép cho vay hay hạn chế về đồng tiền cho vay.
Hiện nay, các khoản cho vay có thế chấp của các CTBH chủ yếu đảm bảo bằng bất động sản.
Ngoài ra, các khoản vay theo đơn bảo hiểm nhân thọ ngày càng có xu hướng gia tăng. Đây cũng là một hình thức thu hút thêm khách hàng cho CTBH. ở Việt Nam hiện nay, việc cho vay theo đơn bảo hiểm đang rất thịnh hành và được các CTBH sử dụng như một hình thức cạnh tranh.
3.1.2.Đầu tư chứng khoán
Đây là một công cụ đầu tư được các CTBH sử dụng rộng rãi nhất. Ở nhiều nước, tỷ lệ này có thể lên đến 80% trong tổng vốn đầu tư công ty bảo hiểm.
Thu nhập từ các hoạt động đầu tư chứng khoán đem lại cho các công ty bảo hiểm là rất
lớn.
Ngoài ra, đầu tư vào chứng khoán có tính thanh khoản cao vì CTBH có thể nhanh chóng bán các loại chứng khoán ra thị trường nếu nhu cầu chi trả tiền mặt là cần thiết. Chứng khoán mà các CTBH đầu tư thường là cổ phiếu và trái phiếu .
¶ Trái phiếu:
Là hình thức đầu tư chủ yếu ,trong đó trái phiếu Chính phủ được ưu tiên hang đầu, vì tính an toàn cao và lại có lãi. Trái phiếu công ty có độ rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ nhưng lại có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đầu tư vào trái phiếu chủ yếu chịu sự tác động của rủi ro lãi suất. Do trái phiếu có những lợi thế nhất định như có thời gian đáo hạn dài nên tạo điều kiện cho các CTBH nhân thọ loại trừ rủi ro lãi suất.
¶ Cổ phiếu:
Cổ phiếu là hình thức đầu tư lớn thứ hai sau trái phiếu chính phủ , được công ty quan tâm bởi tính sinh lợi của nó.
Khi CTBH đầu tư vào cổ phiếu, họ được hưởng các quyền đối với công ty với tư cách là cổ đông,được sở hữu và chia cổ tức với mức độ tương đương với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Quyền lợi mà CTBH được hưởng lúc này tuỳ theo họ nắm giữ cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Ngoài phần lãi thu được từ cổ tức còn có thể thu được lãi vốn. Đó là thu nhập mà CTBH có được do có sự chênh lệch giữa giá thị trường hiện tại và giá mua vào của cổ phiếu.
Tóm lại, đầu tư vào chứng khoán có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các hình thức đầu tư khác. Các CTBH thường có xu hướng đầu tư giá trị lớn vào danh mục này. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm qua,việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các CTBH ngày một gia tăng, nhất là các CTBH phi nhân thọ. Hiện nay các CTBH nhân thọ chủ yếu chuyển sang đầu tư vào chứng khoán và các khoản vay có mức độ đảm bảo ít hơn nhưng có mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao hơn.
3.1.3.Đầu tư bất động sản
Hình thức đầu tư này cũng có vai trò quan trọng vì:
-Duy trì sự ổn định giá trị, việc đầu tư vào bất động sản ít chịu ảnh hưởng bởi tác động của yếu tố lạm phát.
-Phát huy tác dụng khuếch trương, quảng cáo, nâng cao hình ảnh của công ty.
-Cung cấp nơi làm việc thuận lợi cho khách hàng để thắt chặt thêm mối quan hệ với họ.
Chính vì những lý do trên mà hiện nay nhiều CTBH chiếm vị trí vững chắc trên thị trường bất động sản. Ví dụ như ở Đài Loan, công ty bảo hiểm nhân thọ Cathay Life vào cuối những năm 90 sở hữu tới 189 tòa nhà tại Đài Loan, trong đó công ty chỉ sử dụng 106 toà nhà, còn lại là cho thuê.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào bất động sản có rủi ro thị trường cao và có tính thanh khoản thấp. Do đó, các hoạt động kinh doanh bất động sản của CTBH luôn phải chịu những hạn chế nhất định.
Những số liệu thống kê về thị trường bảo hiểm các nước OECD năm 1989 cho thấy đầu tư vào bất động sản của các công ty bảo hiểm chiếm tỷ trọng không lớn, nhất là CTBH phi nhân thọ do yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán.
3.1.4.Đầu tư khác :
Ngoài những hình thức đầu tư trên, CTBH còn có thể đầu tư dưới các hình thức khác như: góp vốn liên doanh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, cầm cố, thế chấp, ký cược ký quỹ dài hạn ... tuỳ theo luật pháp của từng quốc gia.
Với CTBH nhân thọ, nguồn vốn đầu tư thường là dài hạn nên danh mục đầu tư dài hạn của họ lớn hơn các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.Trước đây, các khoản cho vay có đảm bảo bằng thế chấp là hình thức đầu tư chủ yếu của CTBH nhân thọ ở nhiều nước. Những khoản đầu tư này thường mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các khoản đầu tư vào trái phiếu chính phủ, mặc dù tính thanh khoản không cao.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÔNG TY BẢO HIỂM :
4.1.Mục tiêu đánh giá
Hiệu quả là một chỉ tiêu tổng hợp, được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh.
Nhưng với tư cách là một tổ chức hạch toán kinh doanh trên thị trường, hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn về đầu tư trong CTBH chính là hiệu suất sinh lời của đồng vốn. Đồng thời lợi ích của CTBH cũng không được đi ngược lại lợi ích của toàn xã hội mà phải gắn liền với lợi ích của xã hội.
Mục tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư trong CTBH là để doanh nghiệp có thể kiểm soát và làm chủ những hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư hiệu quả và phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp cũng như tình hình thị trường.
4.2 Một số các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm.
Mọi hoạt động đầu tư là nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận .Sau khi đã bù đắp đủ các chi phí phát sinh trong quá trình đầu tư và thực hiện các nghĩa vụ thuế , các công ty bảo hiểm có được lợi nhuận ròng từ hoạt động đầu tư ,khoản lợi nhuận ròng này cần phải so sánh với vốn đã bỏ ra để đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư .Thông thường có ba chỉ tiêu được sử dụng phổ biến :
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận doanh thu đầu tư
Chỉ tiêu này cho thấy trong doanh thu đạt được từ hoạt động đầu tư thì lãi ròng là bao nhiêu . Chỉ tiêu này thấp chứng tỏ công ty hoặc sử dụng không hiệu quả số vốn đầu tư hoặc chi phí cho hoạt động đầu tư quá lớn .
Lợi nhuận ròng từ hoạt động đầu tư
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu đầu tư = ----------------------------------------------
Doanh thu từ hoạt động đầu tư
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư
Chỉ tiêu này cho biết công ty sử dụng vốn đầu tư đạt hiệu quả đến mức nào . Chỉ tiêu này cao chứng tỏ công ty đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty , từ đó giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm, đặc biệt là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
Lợi nhuận ròng từ hoạt động đầu tư
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư = -------------------------------------------------
Tổng vốn đầu tư
Trong đó : tổng vốn đầu tư bao gốm vốn đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu và các quỹ dự phòng nghiệp vụ.
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản được sử dụng để đánh giá hiệu quả trong việc đầu tư tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản thấp là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều tài sản không sinh lời ( như các khoản phải thu , tài sản cố định ).
2 x Lợi nhuận ròng từ hoạt đông đầu tư năm hiện tại
Tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản = -----------------------------------------------------------------
Tài sản năm trước + tài sản năm hiện tại – lợi nhuận ròng từ
hoạt động đẩu tư năm hiện tại
Phần II : Thực trạng đầu tư của các công ty bảo hiểm việt nam
Về tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế
Theo thống kê của Cục Quản lý Giám sát bảo hiểm, tính đến nay, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường là 53 doanh nghiệp, trong đó gồm 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 12 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 11 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm (hiện tại 01 doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể) và 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định và đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Các công ty bảo hiểm đã tạo lập được nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội.Tổng số tiền đầu tư của toàn ngành bảo hiểm chỉ trong thời gian ngắn đã đạt được một con số khả quan. Đến cuối năm 2010, ngành bảo hiểm đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 92.809 tỷ đồng tăng gần 26 nghìn tỷ so với năm 2009 (trong đó, PNT 19.084 tỷ đồng, NT 73.725 tỷ đồng).Điều này càng khẳng định thêm vai trò to lớn của ngành bảo hiểm đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho phát triển nền kinh tế.Sựu tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế được thể hiện qua đồ thị :
Năm
BHNT
BHPNT
Tổng cộng (đơn vị tỷ đồng)
2008
41820,2
15179,8
57000
2009
47600
19313
66913
2010
73725
19084
92809
Về cơ cấu đầu tư
Theo quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được phép đầu tư vốn vào các lĩnh vực: mua trái phiếu chính phủ, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, kinh doanh bất động sản, góp vốn vào các doanh nghiệp khác, cho vay theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. Việc đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng bảo hiểm. Thống kê sơ bộ cho thấy, hiện tại, khoảng 60% tổng giá trị danh mục được các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu, 22% dưới dạng tiền gửi, phần còn lại đầu tư vào thị trường vốn, bất động sản và một số lĩnh vực khác.
Trong những năm gần đây, các CTBH Việt Nam đã chú trọng cải thiện công
tác đầu tư tài chính: Một loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện
nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và
mang lại hiệu quả kinh tế cao như: góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty
cổ phần, tham gia các dự án đầu tư , cho vay, gửi tiết kiệm tại ngân hàng,đầu tư
chứng khoán...
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng được đa
dạng hoá hơn so với trước. Các công ty bảo hiểm nhân thọ không chỉ dừng lại ở đầu
tư trái phiếu Chính phủ dài hạn mà đã mở rộng sang lĩnh vực chứng khoán, xây
dựng cơ bản,dịch vụ( khách sạn, ngân hàng, vui chơi giải trí , xây dựng cơ bản, cơ
sở hạ tầng, công nghiệp nặng, giao thông vận tải) v.v
Mặc dù có đa dạng hóa danh mục đầu tư, nhưng các công ty bảo hiểm vẫn đầu tư chủ yếu vào gửi ngân hàng và trái phiếu chính phủ (trên 80%).Trong khi đó đầu tư vào chứng khoán công ty,bất động sản,cho vay và góp vốn với các cơ sở đầu tư khác lại ở mức khá thấp.
Từ đó ta có thể thấy cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm ở Việt Nam vẫn còn khá
đơn điệu, đầu tư tập trung chủ yếu vào những công cụ đầu tư có tính thanh khoản
cao để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán thường xuyên. Do vậy mà hiệu quả đầu
tư còn khiêm tốn.
Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ
Với thị trường BH nhân thọ, tổng doanh thu phí BH năm 2010 khoảng 13.690 tỷ đồng (tăng 16% so với năm 2009).Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DN đạt 73.725 tỷ đồng. Cơ cấu đầu tư của DN BH nhân thọ khá an toàn với tỷ trọng đầu tư vào trái phiếu chính phủ là 57,26%; gửi tiền vào ngân hàng: 19,04%; chủ động cho vay: 10%; đầu tư vào cổ phiếu và góp vốn chỉ chiếm 12,94%; đầu tư khác 0,76%. Các DN BH cũng có cơ cấu tài chính vững mạnh.
Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
Với thị trường BH phi nhân thọ, tổng doanh thu phí BH năm 2010 khoảng 17.000 tỷ đồng (tăng 24% so với năm 2009). Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DN đạt 19084 tỷ đồng.
Về hiệu qủa đầu tư
Thành công:
Các công ty bảo hiểm đã đóng góp 1 nguồn tài trợ mới, đáng kể và ngày càng gia tăng cho nền kinh tế trong giai đoạn mà nguồn tài trợ vốn là 1 nhu cầu bức xúc cho việc phát triển kinh tế XH
Hoạt động đầu tư của các cty BH đã trừng bước được chuyên môn hóa với việc thành lập và hoạt động của các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư của các cty BHNT như Cty chứng khoán Bảo Việt, quỹ đầu tư Prudential, quỹ đầu tư Manulife, quỹ đầu tư Bảo Việt..
Thu nhập từ hoạt động đầu tư chiếm 1 tỷ trọng không nhỏ và có xu hướng không ngừng tăng lên trong tổng thu nhập của các Cty bảo hiểm.
* 92.800 tỷ đồng là số tiền DNBH đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế tính đến cuối năm 2010, tăng gần 26.000 tỷ đồng so với cuối năm 2009 chỉ riê