Tóm tắt. Tiếng Anh chuyên ngành (TACN) đã được đưa vào giảng dạy ở hầu hết các
trường đại học từ thập kỉ nay, tuy nhiên, không nhiều sinh viên ra trường có thể sử dụng
ngay TACN trong công việc, mà các nhà tuyển dụng phải đào tạo lại hoặc đào tạo thêm
để họ có thể đáp ứng nhu cầu công việc. Thực tế này chứng tỏ việc dạy và học TACN còn
tồn tại nhiều bất cập, nhiều thách thức mà các nhà giáo dục chưa tháo gỡ được. Bài viết
này trình bày thực tế khó khăn và thách thức chung trong việc dạy và học TACN ở trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, và cụ thể hơn, thông qua kết quả điều tra thực trạng dạy và học
TACN ở khoa Lịch sử, Công tác xã hội và Việt Nam học, nhóm tác giả đưa ra một số đề
xuất nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy và học tập TACN tại trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Thách thức và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0060
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6, pp. 124-130
This paper is available online at
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠMHÀ NỘI: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP
Trần Thị Thanh Thủy, Hà Hồng Nga
Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Tiếng Anh chuyên ngành (TACN) đã được đưa vào giảng dạy ở hầu hết các
trường đại học từ thập kỉ nay, tuy nhiên, không nhiều sinh viên ra trường có thể sử dụng
ngay TACN trong công việc, mà các nhà tuyển dụng phải đào tạo lại hoặc đào tạo thêm
để họ có thể đáp ứng nhu cầu công việc. Thực tế này chứng tỏ việc dạy và học TACN còn
tồn tại nhiều bất cập, nhiều thách thức mà các nhà giáo dục chưa tháo gỡ được. Bài viết
này trình bày thực tế khó khăn và thách thức chung trong việc dạy và học TACN ở trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, và cụ thể hơn, thông qua kết quả điều tra thực trạng dạy và học
TACN ở khoa Lịch sử, Công tác xã hội và Việt Nam học, nhóm tác giả đưa ra một số đề
xuất nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy và học tập TACN tại trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
Từ khóa: Tiếng Anh chuyên ngành, thực trạng, khoa Lịch sử, Công tác xã hội, Việt Nam
học, dạy và học.
1. Mở đầu
Ngày nay, khi tiếng Anh càng chứng minh được vai trò của nó trong sự phát triển kinh tế xã
hội, giáo dục, y tế, hàng không, thương mại. . . , việc dạy và học tiếng Anh càng được nhấn mạnh
hơn bao giờ hết. Dạy tiếng Anh ở các trường đại học được chia thành hai lĩnh vực: Tiếng Anh được
dạy như một công cụ để giao tiếp (tiếng Anh tổng quát) và tiếng Anh được dạy để phục vụ cho
công việc sau khi tốt nghiệp (TACN). Các nhà giáo dục và các nhà tuyển dụng cần có sự đánh giá
khách quan, toàn diện thực trạng dạy và học để có được cái nhìn toàn diện về những điểm mạnh
và điểm còn hạn chế trong chương trình học, giáo trình hiện tại, các hoạt động dạy và học, thái
độ nhu cầu của người học, phương pháp dạy và học TACN, v.v. Đó là thông tin cốt lõi giúp nhà
quản lí, nhà giáo dục và các đơn vị tuyển dụng đánh giá được hiệu quả của chương trình dạy và
học TACN để từ đó có những bước tiếp theo nhằm khắc phục, cải tiến và nâng cao hơn nữa công
tác dạy và học TACN.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tổng quan tình hình dạy và học tiếng Anh chuyên ngành
Theo Tom Hutchinson và Alan Water (1987), thuật ngữ TACN (ESP - English for Specific
Purposes) xuất hiện từ đầu những năm 1960. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhu cầu phát
Ngày nhận bài: 08/10/2014. Ngày nhận đăng: 20/05/2015.
Liên hệ: Trần Thị Thanh Thủy, e-mail: thanhthuydhsp@gmail.com.
124
Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...
triển và hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ và thương mại ngày càng gia tăng, dẫn đến sự
phát triển trong lĩnh vực dạy tiếng Anh để đáp ứng nhu cầu mới của phát triển xã hội. Kể từ khi
ra đời đến nay, môn TACN trải qua năm giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất có ảnh hưởng
từ các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực Phân tích ngữ vực (Register analysis). Ở giai đọan
thứ hai, việc dạy và học TACN có ảnh hưởng từ các lí thuyết trong lĩnh vực Phân tích diễn ngôn
(Discourse analysis). Ở giai đoạn thứ ba, việc dạy và học TACN được dựa trên việc phân tích các
nhu cầu học tập (needs analysis), và hướng đến việc giải quyết các vấn đề cụ thể (Target situation
analysis). Giai đoạn thứ tư lại chú trọng đến việc phát triển các kĩ năng và chiến lược giao tiếp
(Skills and strategies). Ở giai đoạn thứ năm, việc dạy TACN được tiến hành dựa trên nguyên tắc
lấy việc học làm trung tâm (learning-centred approach). Nếu như ở bốn giai đoạn trước đó, việc
dạy TACN được dựa trên các nghiên cứu phân tích về mặt sử dụng ngôn ngữ (language use), thì
cách tiếp cận lấy việc học làm trung tâm ở giai đoạn thứ năm quan tâm đến bản chất của quá trình
học tập (learning process), và hướng đến thúc đẩy tính tích cực chủ động của người học trong quá
trình học tập của mình. Theo ý kiến của nhóm tác giả, một người học TACN thành công phải là
người biết đem kiến thức và kĩ năng được học ứng dụng vào công việc; có thể đọc sách, báo về
chuyên ngành của mình, có thể dịch thuật tài liệu để bổ sung cho công việc, có thể viết báo cáo,
thư tín, hoặc trả lời điện thoại, nói chuyện với người khác... ở những môi trường có sử dụng tiếng
Anh để làm việc, hoặc có yếu tố nước ngoài trong một vài lĩnh vực làm việc. Các nghiên cứu [1,8]
đã chỉ ra rằng việc học tiếng Anh chuyên ngành phải được xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của người
học, từ những nhu cầu sử dụng ngôn ngữ để thực hiện các chức năng công việc tại công sở.
Ở trong nước, TACN trong xu hướng hội nhập toàn cầu, càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết, không những chỉ với sinh viên trường ĐHSPHN mà còn với sinh viên các trường sư phạm
trên toàn quốc bởi lẽ đó là nơi đào tạo và cung cấp nguồn lao động chính cho ngành giáo dục [4].
TACN trước đây đã được đưa vào sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của sinh viên nhưng
phần lớn các chương trình này xuất hiện mang tính lẻ tẻ, chưa được biên soạn thống nhất và đồng
bộ giữa các khoa, đặc biệt chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và các khoa, giữa giáo viên
tiếng Anh biên soạn chương trình và giáo viên của các khoa chuyên ngành. TACN đã được trường
ĐHSPHN tiến hành giảng dạy từ năm 2004. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
TACN, cụ thể đề tài “Xây dựng chương trình chi tiết, giáo trình tiếng Anh chuyên ngành cho sinh
viên không chuyên Anh trường Đại học Sư phạm Hà Nội”, Mã số: B2007-17-110TĐ, Chủ nhiệm
đề tài: TS. Nguyễn Hắc Hải. Đề tài này đã xây dựng được khung chương trình đào tạo TACN cho
các trường Đại học Sư phạm và khung chương trình giảng dạy chi tiết cùng với giáo trình cho sáu
chuyên ngành đạo tạo Vật lí, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Tâm lí học và Giáo dục Đặc biệt. Tuy
nhiên đề tài chưa có sự chuẩn bị kiến thức chuyên ngành cho các giáo viên giảng dạy. Giáo trình
TACN đã được khoa tiếng Anh biên soạn nhiều nhưng chưa có tính đồng bộ và hệ thống và vẫn
chưa được đưa vào sử dụng và xuất bản. Ở Việt Nam, có nhiều giáo trình TACN đã được xuất bản,
cụ thể là giáo trình TACN Xã hội học (English for Sociology), Giáo trình TACN Lịch sử (English
for History).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích thông qua thực trạng giảng dạy và học tập TACN ở khoa Lịch sử, Công tác xã
hội và Việt Nam học ở trường ĐHSPHN, nhóm nghiên cứu muốn tìm giải pháp nâng cao hiệu quả
học tập và giảng dạy TACN cho ba khoa nói trên. Vì thế, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra như sau:
1. Thực trạng dạy và học TACN ở khoa Lịch sử, Công tác xã hội và Việt Nam học như
thế nào?
2. Giải pháp nào có thể giải quyết khó khăn và nâng cao hiệu quả dạy và học TACN ở khoa
Lịch sử, Công tác xã hội và Việt Nam học?
Nhóm tác giả đã dùng kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính trên hai đối
125
Trần Thị Thanh Thủy, Hà Hồng Nga
tượng nghiên cứu là sinh viên và giáo viên. Đối với sinh viên ở 3 khoa, phiếu khảo sát gồm 10 câu
được phát ra cho 90 sinh viên, mỗi khoa 30 sinh viên, là sinh viên năm thứ ba khi các em vừa học
xong TACN, yêu cầu các em miêu tả chi tiết nhất về việc học và các hoạt động dạy học của giáo
viên trên lớp. Đối với giáo viên, nhóm tác giả đã tiến hành các cuộc phỏng vấn sâu, gợi mở các
vấn đề liên quan đến giảng dạy và học tập TACN của sinh viên. Vì số lượng giáo viên TACN mỗi
khoa rất ít (mỗi khoa chỉ có 01 - 2 giáo viên) nên việc phỏng vấn diễn ra thuận lợi, không tốn kém
nhiều công sức và thời gian cho nhóm nghiên cứu.
2.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng giảng dạy và học tập tiếng Anh chuyên
ngành tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2.3.1. Kết quả từ phỏng vấn giáo viên
* Khoa Lịch sử
Môn TACN Lịch sử được giảng dạy ở học phần 4, với thời lượng rất ít là 2 tín chỉ. Môn học
này từ trước tới nay do duy nhất một giáo viên đảm nhiệm. Lãnh đạo khoa Lịch sử hi vọng sau 5-7
năm nữa sẽ có một vài giảng viên đi học từ Anh, Úc, Mĩ về, lúc đó sẽ có nhiều thầy cô có thể đảm
nhiệm môn học này.
Hiện tại giáo viên dạy tự quyết định về chương trình và giáo trình tự biên soạn riêng với
hàm lượng 60% dành cho Lịch sử Việt Nam và 40% cho Lịch sử thế giới. Tuy nhiên, chưa có hình
thức chính thức nào đánh giá tính hiệu quả của chương trình cũng như giáo trình đang sử dụng.
Kĩ năng Đọc hiểu và Nói dưới dạng thuyết trình về một chủ điểm quen thuộc được giáo viên
chú trọng. Ngoài ra ngữ pháp, từ vựng chuyên ngành và dịch tài liệu chuyên ngành cũng được củng
cố và nâng cao. Điều này cũng trùng hợp với mong muốn và ý kiến chỉ đạo của Ban chủ nhiệm
khoa Sử trong việc giảng dạy TACN cho sinh viên.
Phương pháp giảng dạy là lồng ghép giữa dạy và kiểm tra đánh giá liên tục nhằm tạo động
lực cho sinh viên phải học khi có áp lực về điểm số. Tuy nhiên do lớp học quá đông (60 sinh viên)
nên giáo viên không thể có thời gian kiểm tra và bao quát hết sinh viên trong lớp. Các bước dạy
trên lớp là dạy cấu trúc, cho sinh viên đọc từ mới, làm bài tập đọc hiểu, dịch. Đây là phương pháp
dạy học truyền thống, sự hạn chế này có thể một phần là do lớp học quá lớn và do thời gian quá ít
cho môn học nên người dạy không thể tiến hành các hoạt động đa dạng hơn trên lớp. Tuy nhiên,
giáo viên đã thực hiện rất đúng tinh thần dạy học theo tín chỉ, thể hiện ở chỗ yêu cầu sinh viên tự
đọc bài trước ở nhà, tra từ điển từ mới trước khi đến lớp. Việc này giúp tăng thời lượng tự học ở
nhà cho sinh viên.
Hạn chế của việc dạy TACN Lịch sử là nằm ở thực tế chỉ có một giáo viên đảm nhiệm nên
việc biên soạn, giảng dạy kiểm tra đánh giá có thể chưa là sản phẩm của trí tuệ tập thể và việc
đánh giá tính hiệu quả của khóa học TACN có thể còn chưa mang tính khách quan. Thêm vào đó,
các hoạt động trên lớp còn chưa thú vị, phong phú và linh hoạt nên có thể chưa có được những giờ
học lôi cuốn nhưng vẫn hiệu quả cho sinh viên.
* Khoa Công tác xã hội
TACN được dạy ở học phần 6 với 3 tín chỉ. Các giáo viên tự soạn tập bài giảng dưới dạng
bản thảo nhưng chưa được thẩm định. Tiêu chí lựa chọn giáo viên là các thầy cô đã đi học tại
những nước nói tiếng Anh. Tuy nhiên đến thời điểm này khoa Công tác xã hội vẫn hoàn toàn mời
giáo viên khoa tiếng Anh hợp tác chứ chưa có khả năng đảm nhiệm môn học này.
TACN thực sự là thách thức đối với cả giáo viên và sinh viên vì trong khoảng thời gian ngắn
mà lại phải tập trung vào dạy và học nhiều thuật ngữ chuyên ngành, song song với việc phát triển
các kĩ năng ngôn ngữ. Ngoài việc giúp sinh viên đọc hiểu tài liệu, giáo viên chú trọng giúp sinh
viên có thể nói và giao tiếp trong các hội thảo hợp tác trao đổi quốc tế, tăng cường hoạt động nhóm.
126
Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...
Hình thức kiểm tra đánh giá thông qua viết luận, và bài điều kiện thông qua bài sinh viên
báo cáo nhóm. Giáo viên giao chủ đề cho sinh viên chuẩn bị ở nhà, các em xây dựng tình huống,
sử dụng tiếng Anh để thể hiện việc xử lí tình huống trong Công tác xã hội. Nội dung viết luận cho
bài thi cuối kì tương đối phong phú, ngoài ngữ pháp ra thì giáo viên hay đưa ra tình huống, các em
sẽ viết ra bằng tiếng Anh cách xử lí tình huống đó như thế nào. Cách học này vừa phát huy được
kiến thức chuyên môn của các em lại vừa làm rõ được các nội dung học, và còn giúp sinh viên có
thể sử dụng TACN một cách sâu hơn thay vì chỉ kiểm tra theo kiểu thuần túy ngữ pháp từ vựng.
* Khoa Việt Nam học
TACN được dạy ở học phần 6 với 3 tín chỉ. Lãnh đạo khoa Việt Nam học rất coi trọng môn
TACN, đặc biệt cho đối tượng sinh viên ngành Du lịch.
Giáo viên giảng dạy TACN là sự kết hợp giữa giáo viên khoa tiếng Anh và giáo viên khoa
Việt Nam học. Chương trình gồm hai phần: Phần tiếng Anh về Kiến thức văn hóa, do giáo viên
khoa tiếng Anh đảm nhiệm, phần Nghiệp vụ du lịch do một nhóm giáo viên trong tổ Du lịch giảng
dạy. Tuy nhiên, chương trình của giáo viên khoa tiếng Anh biên soạn chưa được khoa Việt nam
học thông qua và không có khung chương trình chi tiết. Giáo viên giảng dạy không được huấn
luyện về các nội dung văn hóa và nghiệp vụ du lịch. Chương trình chủ yếu nhấn mạnh kĩ năng viết
và nói.
Về hình thức kiểm tra đánh giá, sinh viên được yêu cầu viết bài giới thiệu ngắn về các điểm
du lịch, sau đó sinh viên và giáo viên sẽ làm việc với nhau (8-10 sinh viên/ 1 giáo viên). Trong
buổi kiểm tra, sinh viên và giáo viên sẽ đến trực tiếp tại điểm du lịch, sinh viên sẽ thuyết trình và
giáo viên sẽ góp ý, sửa chữa và chấm điểm. Đây là cách thức dạy theo đường hướng giao tiếp gắn
liền trực tiếp với công việc tương lai của sinh viên sau này. Đây là một đường hướng dạy học có
tính thực tiễn cao, theo đúng mục tiêu đào tạo là phải sử dụng được tiếng Anh trong công việc, nên
đã đem lại hứng thú và tạo động cơ cho sinh viên trong học tập khi họ nhìn thấy mối liên hệ trực
tiếp giữa việc học và việc sử dụng TACN trong công việc sau này của họ.
2.3.2. Kết quả từ phiếu khảo sát dành cho sinh viên
Phần lớn sinh viên đều đã được học tiếng Anh từ bậc phổ thông liên tục đến bậc đại học
(khoa Sử 93%, khoa Công tác xã hội 100% và khoa Việt Nam học 92%). Như vậy, về lí thuyết,
sinh viên đã có kiến thức nền về ngữ pháp và từ vựng đủ để đáp ứng theo học chương trình TACN.
Khi được hỏi động cơ học TACN, sinh viên ở cả 3 khoa Sử, Công tác xã hội và Việt Nam
học đều trả lời các em học tiếng Anh vì hai lí do chính: Tiếng Anh là môn học bắt buộc và họ tin
rằng tiếng Anh sẽ cho họ cơ hội tốt khi xin việc. Ngoài ra, sinh viên học tiếng Anh vì họ nhận
thức được rằng tiếng Anh là phương tiện để mở rộng sự hiểu biết cũng như là công cụ để đào sâu
chuyên ngành của họ. Có thể nói, sinh viên có động lực xuất phát từ chính nguyện vọng và nhận
thức của họ chứ không phải là do một yếu tố bên ngoài nào. Hi vọng những động lực bên trong
này sẽ giúp họ có thái độ học tập tốt hơn khi học TACN.
Đề cập đến những khó khăn trong quá trình học tiếng Anh, thiếu môi trường thực hành là
khó khăn hàng đầu được nêu ra (90% đối với sinh viên khoa Sử, 60% đối với sinh viên khoa Công
tác xã hội và 92% đối với sinh viên khoa Việt Nam học). Một tỉ lệ tương đối cao sinh viên tự
nhận là “thiếu năng lực học ngoại ngữ, do khả năng còn hạn chế”. Khó khăn cuối cùng rất đáng
để chúng ta lưu ý là có đến 33% sinh viên khoa Việt nam học đổ lỗi cho giáo viên yếu về năng lực
chuyên môn và có tới 47% sinh viên khoa Sử lại đổ lỗi cho phương tiện học tập nghèo nàn.
Nhắc về mức độ cần thiết phải học tiếng Anh chuyên ngành, đại đa số sinh viên đều nhận
thấy ở mức độ “cần thiết” hoặc “rất cần thiết” của việc học tiếng Anh chuyên ngành. Từ nhận thức
này hi vọng sẽ tạo nhiều động lực cho các em khi học TACN. Sinh viên cũng tin rằng họ sẽ có
nhiều cơ hội sử dụng TACN trong công việc của họ sau này đặc biệt là với sinh viên khoa Công tác
127
Trần Thị Thanh Thủy, Hà Hồng Nga
xã hội (80%) và khoa Việt Nam học (67%) khi họ cho rằng họ sẽ thường xuyên dùng đến TACN
khi đi làm, trong khi đó sinh viên khoa Sử chỉ cho rằng họ chỉ “thỉnh thoảng” dùng TACN trong
công việc.
Tuy nhiên rất ít sinh viên ở cả 3 khoa hài lòng với khóa học TACN của họ, chỉ có 27% sinh
viên khoa Sử cho là “hiệu quả”, con số đó còn thấp hơn nhiều đối với sinh viên khoa Công tác xã
hội (4%) và đặc biệt không có sinh viên nào ở khoa Việt Nam học đánh giá khóa học TACN “hiệu
quả”, tất cả sinh viên khoa Việt Nam học được điều tra đều đánh giá “không hiệu quả” hoặc ở mức
độ “bình thường” tức là họ chưa hài lòng với khóa học TACN của họ.
Bàn cụ thể về các hoạt động và kĩ năng mà thực tại các thầy cô giáo dạy tiếng Anh chuyên
ngành, kết quả thu được không cho thấy sự nhất quán ở 3 khoa. Khoa Lịch sử, giáo viên tập trung
các hoạt động chủ yếu để phát triển kĩ năng Đọc (70%), Nói và Dịch (53%), điều này cũng gần
như tương tự đối với khoa Việt Nam học nhưng với tỉ lệ thấp hơn (Đọc 50%, Nói 58%, Dịch 50%)
nhưng lại khác hẳn đối với khoa Công tác xã hội. Giáo viên dạy TACN ở khoa này chủ yếu tập
trung vào kĩ năng Nói, Ngữ pháp, từ vựng (Nói 65%, Ngữ pháp 80%, Từ vựng 80%)
Tự học là một trong yếu tố quyết định sự thành công của sinh viên trong việc học tập TACN.
Bảng khảo sát cũng cố gắng tìm hiểu các cách tiếp cận của giáo viên ở 3 khoa trong việc nâng
cao thời gian tự học của sinh viên. Hình thức tự học truyền thống “cho thêm bài tập về nhà” được
giáo viên dạy TACN khoa Lịch Sử sử dụng nhiều nhất (50%), họ cũng “thả nổi” và tôn trọng khi
cho sinh viên tự do lựa chọn cách tự học (53%). Giáo viên dạy TACN khoa Công tác xã hội lại áp
dụng hình thức cho học sinh làm việc theo nhóm và giao nhiệm vụ cụ thể như thuyết trình về một
chủ điểm nào đó hoặc viết luận về môn vấn đề liên quan đến chuyên ngành hẹp của các em. Hoạt
động này khi được hỏi cụ thể, giáo viên cho biết sinh viên rất thích hoạt động này và đã tham gia
tích cực vào các hoạt động nhóm mà giáo viên cho về nhà. Giáo viên TACN khoa Việt Nam học
ngoài việc thỉnh thoảng cho thêm bài tập về nhà (25%) thì cũng cho sinh viên tự lựa chọn cách tự
học cho riêng họ.
Tóm lại, qua điều tra và phỏng vấn về thực trạng giảng dạy và học tập TACN tại các khoa
Lịch sử, Việt Nam học và Công tác xã hội, có một số vấn đề nổi cộm cần được giải quyết. Thứ
nhất, thời gian và thời lượng các khoa tiến hành dạy TACN không đồng đều, vì thế chưa có và
cũng sẽ rất khó thống nhất chuẩn đầu ra chung cho TACN cho các khoa trong trường. Thứ hai,
chương trình do giáo viên đứng lớp tự biên soạn mà không có sự quản lí, và đánh giá về mặt chất
lượng của tài liệu biên soạn, tài liệu và chương trình dạy còn mang tính chủ quan. Thứ ba, không
có sự đồng đều về cách tiếp cận trong việc lựa chọn nội dung giảng dạy. Thứ tư, các nguồn tài liệu
được lựa chọn để biên soạn chương trình cũng không thống nhất. Thí dụ, khoa Việt nam học lấy
các tài liệu tổng hợp trên mạng, khoa Lịch sử lấy tài liệu từ các sách chuyên ngành do các giáo
viên được đào tạo ở nước ngoài mang về. Thứ năm, các kĩ năng được phát triển trong chương trình
tiếng Anh chuyên ngành không đồng đều: Khoa Lịch sử thì chỉ chú trọng vào việc đọc và dịch các
tài liệu, khoa Việt Nam học phát triển thêm được kĩ năng Nói và Dịch. Khoa Công tác xã hội tích
hợp được cả bốn kĩ năng. Thứ sáu, không có sự quản lí chất lượng dạy và học. Hầu hết các giáo
viên tự soạn bài giảng, tự nhận xét, tự thiết kế bài kiểm tra, bài thi để đánh giá sinh viên.
Từ thực trạng đó, nhóm nghiên cứu mong muốn có thể xây dựng nên một chương trình
giảng dạy chi tiết và giáo trình TACN, cụ thể cho 3 khoa Lịch sử, Việt Nam học và Công tác xã
hội, có sự đồng bộ về cách tiếp cận, lựa chọn nguồn tài liệu và các kĩ năng tiếng được phát triển
trong chương trình.
2.4. Đề xuất một số giải pháp
Trên cơ sở thực trạng và thách thức nêu trên, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp chủ
yếu để cải thiện tình hình giảng dạy và học tập TACN tại ĐHSPHN và từng bước nâng cao hơn
128
Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội...
nữa tính chuyên nghiệp trong việc đào tạo một học phần quan trọng cho gần 2000 sinh viên mỗi
khoá của một đại học đầu ngành.
Thứ nhất, nhà trường cần từng bước xác định nhu cầu của xã hội đối với TACN để đề ra
mục tiêu đào tạo phù hợp. Nhu cầu xác thực của người học là sau khi tốt nghiệp, họ sẽ sử dụng
TACN được đào tạo để làm việc, để được phát triển và thăng tiến nghề nghiệp (Nguyễn, T.K.T,
2007). Khi quá trình đào tạo đúng hướng, đúng nhu cầu sẽ là kích thích rất lớn đối với động cơ học
tập và giúp cho việc đào tạo đúng trọng tâm, đúng mục tiêu hơn rất nhiều.
Thứ hai, các cấp quản lí cần thống nhất một lộ trình chung về chương trình, số tiết, giáo
trình quy định cho từng chuyên ngành cụ thể trên toàn trường.
Thứ ba, cần làm rõ cho người học thấy mục tiêu cụ thể và yêu cầu đặt ra của bộ môn quan
trọng và thiết thực này để từng bước nâng cao hứng thú, động cơ tích cực đối với việc học. Ngoài
ra, hướng dẫn, tư vấn phương pháp học tập cho sinh viên cũng không kém phần quan trọng. Nhiều
sinh viên rất chăm nhưng không biết cách học dẫn đến kết quả không cao.
Thứ tư, đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng giáo viên TACN thông qua