Tóm tắt. Bài báo đã nêu lên thực trạng trong liên kết nghiên cứu khoa học giữa các
trường đại học sư phạm. Kết quả nghiên cứu cho thấy ít có sự liên kết giữa các lĩnh
vực khoa học trong các nghiên cứu khoa học và việc liên kết nghiên cứu khoa học
ở ngay tại các trường sư phạm cũng như giữa các trường sư phạm vẫn còn hạn chế.
Đặc biệt việc liên kết nghiên cứu khoa học giữa trường sư phạm với các trường phổ
thông, với doanh nghiệp, với các trường đại học ngoài khối sư phạm còn rất ít. Bài
báo cũng đề xuất một số giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học giữa
các trường để khuyến khích các nhà khoa học hợp tác với nhau cùng nghiên cứu
những vấn đề chung của ngành và chia sẻ thông tin khoa học với nhau trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên đều có lợi và cùng phát triển.
17 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 173 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 167-183
This paper is available online at
THỰC TRẠNG LIÊN KẾT TRONG NGHIÊN CỨU KHOAHỌC
GIỮA CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM
Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài báo đã nêu lên thực trạng trong liên kết nghiên cứu khoa học giữa các
trường đại học sư phạm. Kết quả nghiên cứu cho thấy ít có sự liên kết giữa các lĩnh
vực khoa học trong các nghiên cứu khoa học và việc liên kết nghiên cứu khoa học
ở ngay tại các trường sư phạm cũng như giữa các trường sư phạm vẫn còn hạn chế.
Đặc biệt việc liên kết nghiên cứu khoa học giữa trường sư phạm với các trường phổ
thông, với doanh nghiệp, với các trường đại học ngoài khối sư phạm còn rất ít. Bài
báo cũng đề xuất một số giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học giữa
các trường để khuyến khích các nhà khoa học hợp tác với nhau cùng nghiên cứu
những vấn đề chung của ngành và chia sẻ thông tin khoa học với nhau trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên đều có lợi và cùng phát triển.
Từ khóa: Thực trạng, liên kết nghiên cứu khoa học, liên kết giữa các trường đại
học sư phạm.
1. Mở đầu
Trong bất cứ thời đại nào, hoàn cảnh xã hội nào thì giáo viên (GV) cũng đóng vai
trò quyết định chất lượng giáo dục (GD) bởi họ thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản là dạy học
và giáo dục. Ngày nay việc đào tạo GV được quan niệm là quá trình gồm hai giai đoạn:
đào tạo ban đầu và phát triển năng lực trong quá trình hoạt động nghề nghiệp và quan
niệm này được phản ánh bằng thuật ngữ “giáo dục giáo viên” do UNESCO khuyến nghị.
Thuật ngữ này thuận lợi cho việc hướng tới triết lí: Nghề giáo dục phải được đào tạo suốt
đời, trong đó quá trình học nghề ở các cơ sở đào tạo giáo viên/các trường sư phạm (SP)
có vai trò làm nền tảng cho sự phát triển tiềm lực của người giáo viên tương lai.
Trong thời đại bùng nổ thông tin và phát triển khoa học công nghệ (KHCN) với
tốc độ gia tăng như hiện nay, việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học (NCKH) và chuyển giao
công nghệ là đòn bẩy để trường đại học (ĐH) phát triển bền vững, vươn ngang tầm quốc
tế. Đào tạo và NCKH là hai nhiệm vụ trọng tâm của cán bộ khoa học (CBKH) ở trường
đại học sư phạm (ĐHSP). Hai nhiệm vụ này không tách rời nhau mà kết hợp và thống
Tác giả liên lạc: Võ Thị Minh Chí, địa chỉ e-mail: minhchi12a4h@yahoo.com
167
Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng
nhất với nhau, có mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Những ý tưởng khoa học
được nảy sinh từ thực tiễn của quá trình đào tạo của CBKH, thúc đẩy CBKH tìm hiểu, tìm
tòi và phát hiện ra những điều mới phục vụ cho công tác đào tạo, đồng thời những tri thức
khoa học làm cơ sở lí luận vững chắc cho việc tìm tòi, khám phá, phát minh hay minh
chứng/biện minh cho vấn đề khoa học. Ngược lại, NCKH giúp CBKH nâng cao năng lực
chuyên môn thông qua việc cập nhật, bổ sung tri thức và nâng cao năng lực cá nhân, giải
quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình giảng dạy và trong chuyên ngành phụ trách.
NCKH cũng giúp CBKH mở rộng tầm hiểu biết và phát triển năng lực nghề, khẳng định
vị thế của mình trước đồng nghiệp và sinh viên (SV), từ đó đem lại tác dụng về mặt giáo
dục (GD) đối với bản thân và với SV, gắn NCKH với giảng dạy, đào tạo. NCKH và những
kết quả mà nó đem lại cũng giúp khẳng định vị thế của trường đại học nghiên cứu trong
hệ thống GD đại học nói chung và hệ thống SP nói riêng.
Song việc nghiên cứu khoa học không thể tiến hành độc lập mà cần có sự liên kết:
liên kết các lĩnh vực khoa học với nhau; liên kết các nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực khoa
học cùng như từ nhiều trường đại học, nhiều nước khác nhau, tùy thuộc vào vấn đề khoa
học. Liên kết nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, sự chia
sẻ thông tin khoa học và hợp tác làm việc, phát triển đội ngũ các nhà khoa học cho từng
trường và cho xã hội, cho cộng đồng khoa học. Trên cơ sở đó bài báo nghiên cứu thực
trạng trong liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm nhằm đưa ra
giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Liên kết trong hoạt động nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm
Trường đại học sư phạm là nơi có sự giao thoa của các lĩnh vực khoa học: khoa học
cơ bản, khoa học ứng dụng và khoa học giáo dục. Hoạt động nghiên cứu khoa học không
chỉ là tìm tòi, khám phá cái mới trong từng lĩnh vực khoa học riêng biệt mà có sự liên kết,
kết hợp giữa các khoa học để phát hiện ra những tri thức mới, cách tiếp cận mới, quy trình
công nghệ mới để đáp ứng được những vấn đề phức tạp của cuộc sống. Trong xu thế dạy
học “lấy người học làm trung tâm”, nghiên cứu khoa học được xem như là một phương
pháp học tập tích cực giúp cho sinh viên sư phạm có khả năng đáp ứng ở mức độ cao cho
ba mục tiêu về tri thức, kĩ năng làm việc và đạo đức nghề nghiệp để bước vào nghề giáo
dục trong tương lai và phát triển nguồn nhân lực sáng tạo cho đất nước. Hoạt động nghiên
cứu khoa học ở trường đại học sư phạm không chỉ đóng góp làm giàu tri thức khoa học
chuyên ngành mà còn giải quyết những vấn đề trong công tác đào tạo giáo viên. Kết quả
nghiên cứu khoa học chuyên ngành không chỉ hữu ích cho lĩnh vực khoa học đó mà còn
có thể được sử dụng trực tiếp trong hoạt động giảng dạy, bổ sung cơ sở lí luận và thực tiễn,
làm phong phú thêm bài giảng ở trường đại học. Những kết quả nghiên cứu, kể cả những
công trình chưa được công bố chính thức vẫn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho cán bộ giảng dạy và sinh viên.
Liên kết được hiểu là: “từng phần riêng biệt trong đó có một chuỗi dính kết với
nhau”. Liên kết là “Kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm mục
168
Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm
đích nào đó”. Theo từ điển bách khoa Việt Nam (2002): Khái niệm liên kết (xã hội) hay
hoà nhập nói lên sự kết hợp thích ứng với nhau giữa các yếu tố cấu thành một hệ thống,
cho phép các yếu tố đó tạo thành một chỉnh thể cân đối.
Hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện qua hệ thống các đề tài nghiên cứu,
dự án hay các hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật, tài liệu/sách hoặc các nguồn thông
tin về chuyên môn. Liên kết nghiên cứu khoa học được hiểu là sự thống nhất ý tưởng khoa
học vấn đề nghiên cứu mà ở đó cần có sự kết hợp của hai hay nhiều lĩnh vực khoa học
khác nhau mới có thể thực hiện thành công, giải quyết được vấn đề nghiên cứu.
Liên kết nghiên cứu khoa học ở các trường đại học sư phạm được thể hiện ở:
+ Liên kết các lĩnh vực khoa học: các khoa học trong khoa học tự nhiên (hay khoa
học xã hội); khoa học tự nhiên với khoa học xã hội; khoa học cơ bản (khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội) với khoa học giáo dục.
+ Liên kết đội ngũ các nhà khoa học để thực hiện vấn đề nghiên cứu mang tính liên
ngành: Liên kết các giảng viên giữa các khoa trong cùng trường đại học sư phạm; Liên
kết đội ngũ giảng viên các khoa với các đơn vị nghiên cứu trong trường; Liên kết đội ngũ
giảng viên, các nhà khoa học giữa các trường để thực hiện các chương trình, đề tài nghiên
cứu khoa học có tính liên ngành (khoa học cơ bản với khoa học giáo dục), liên vùng,. . .
phục vụ những vấn đề chung của ngành hoặc vấn đề liên quan đến sư phạm; Liên kết
trường sư phạm, các đơn vị nghiên cứu của trường với hệ thống giáo dục phổ thông (sở
giáo dục và đào tạo, các trường phổ thông);
+ Liên kết sử dụng cơ sở vật chất ở các trường có địa bàn gần nhau vào thực hiện
đề tài nghiên cứu khoa học chung. Xây dựng nguồn cơ sở vật chất chung của ngành.
+ Liên kết về nguồn thông tin dữ liệu chung của ngành phục vụ cho công tác nghiên
cứu khoa học chung qua hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật, tài liệu hoặc các kết quả
nghiên cứu trước đó. . .
2.2. Thực trạng liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học
sư phạm
2.2.1. Ý kiến của giảng viên SP về việc tham gia nghiên cứu khoa học
- Mức độ làm chủ nhiệm đề tài có sự liên kết giữa khoa học cơ bản với khoa học
giáo dục đạt mức độ thấp. Mức độ làm chủ nhiệm tại khoa đạt cao nhất, có điểm trung
bình là 2,19, còn làm chủ nhiệm những đề tài liên kết nội dung với các khoa trong trường
khác thấp hơn, chỉ đạt 1,67; còn liên kết với các trường SP khác chỉ đạt 1,45. Làm chủ
nhiệm đề tài có liên kết với trường PT cũng rất thấp, là 1,66.
- Mức độ tham gia các đề tài NCKH có tính liên kết cũng không cao. Nếu đề tài liên
kết trong khoa là cao nhất, còn tham gia NCKH với những các khoa khác trong trường
cũng đạt điểm số không cao. Còn mức độ tham gia liên kết với các trường càng thấp.
- Việc mời các chuyên gia từ các trường, đơn vị khác cùng nghiên cứu đề tài mang
tính liên ngành cũng không cao, chỉ đạt 1,83.
Kết quả phản ánh như sau: Chỉ có việc tham gia (chứ không phải làm chủ nhiệm)
169
Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng
các đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD ở khoa là có điểm trung bình đạt mức tốt nhất,
còn lại việc liên kết NCKH với các trường trong và ngoài hệ thống SP, với các trường PT,
với các tổ chức xã hội khác đều ở mức kém (điểm trung bình < 1,73). Chưa bàn về nguyên
nhân dẫn đến hiện trạng này, song rõ ràng, việc hạn chế trong liên kết NCKH, trước hết
phần nào làm ảnh hưởng đến sự “cập nhật” thông tin phục vụ nội dung bài giảng của
giảng viên, thiếu hiểu biết nhu cầu XH đối với ngành, môn học mà họ đang giảng dạy,
mặc dù qua phỏng vấn sâu, đề tài cũng biết rằng, trong số các khách thể nghiên cứu cũng
có nhưng rất ít CB, GV đã từng làm chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước, cấp bộ trọng điểm,
cấp bộ thường và cấp trường. Chúng tôi đã tiến hành thu thập tài liệu và phân tích kết quả
trên phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để có các số liệu như ở các bảng dưới đây. Trong các
bảng có viết tắt TBC là trung bình cộng, ĐLC là độ lệch chuẩn.
Bảng 1. Mức độ tham gia nghiên cứu khoa học
Stt Nội dung Kết quả
TBC ĐLC
1 Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD tại khoa 2,19 1,075
2 Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với cáckhoa khác trong trường 1,67 1,028
3 Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với cáctrường SP trong hệ thống SP 1,45 0,932
4 Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD ở cáctrường ngoài hệ thống SP 1,36 0,811
5 Làm CN đề tài liên kết với các trường PT 1,66 0,938
6 Làm CN đề tài liên kết với các doanh nghiệp, đơn vịkhác ngoài trường SP 1,28 0,679
7 Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD tạikhoa 2,38 1,091
8 Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với cáckhoa khác trong trường 1,93 1,034
9 Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với cáctrường trong hệ thống SP 1,65 1,001
10 Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với cáctrường ngoài hệ thống SP 1,52 ,877
11 Tham gia đề tài liên kết với các trường PT 1,74 1,032
12 Tham gia đề tài liên kết với các doanh nghiệp, đơn vịkhác ngoài trường SP 1,50 0,923
13 Mời các chuyên gia từ các trường, đơn vị khác cùngnghiên cứu đề tài mang tính liên ngành 1,83 1,070
* Lí do tham gia liên kết nghiên cứu khoa học
Lí do tham gia chủ yếu do xuất phát từ uy tín và quan hệ của cá nhân, như: “Môn
học/ lĩnh vực KH ít chuyên gia, cần có người tham gia ở lĩnh vực đó” hoặc “Được giới
170
Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm
thiệu, chỉ định”. Ý kiến về các lí do này cũng có độ phân tán rộng, không tập trung. Ý
kiến về được mời tham gia do: “Uy tín khoa học, năng lực giảng dạy và NCKH” và thân
hữu từ trước” có độ phân tán hẹp hơn.
Kết quả phỏng vấn cho thấy: Được mời tham gia đề tài do “quan hệ thân hữu từ
trước” và “Uy tín khoa học, năng lực giảng dạy và NCKH” vì đã có hiểu biết về năng lực
và khả năng hợp tác, đảm bảo thuận lợi khi tiến hành nghiên cứu đề tài. Có ý kiến rằng:
“Tôi cũng được mời tham gia đề tài cấp Bộ, bởi khi đăng kí đề tài có yêu cầu phải có sự
tham gia nhiều đơn vị. Nhưng không rõ đến khi triển khai thì có được mời hợp tác hay
không thì chưa rõ”.
Đôi khi việc mời hợp tác nghiên cứu khoa học còn do nhiệm vụ của khoa giao mang
tính hành chính, đồng thời do cùng tổ chuyên môn (ĐHSP Hà Nội; ĐHSP TP HCM; ĐH
Sài Gòn). Chỉ có những đề tài, dự án được cấp kinh phí từ Sở KH-CN thì có sự liên kết
giữa các nhà khoa học để giải quyết vấn đề thực tiễn (ĐH Cần Thơ; ĐH Tây Nguyên...).
Bảng 2. Lí do tham gia liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học
Stt Nội dung Kết quả
TBC ĐLC
1 Do môn học/ lĩnh vực KH ít chuyên gia, cần có ngườigiảng dạy hoặc thực hiện NCKH 2,35 1,001
2 Do uy tín khoa học, năng lực giảng dạy và NCKH 2,59 0,974
3 Do quan hệ thân hữu từ trước 1,71 0,984
4 Được giới thiệu, chỉ định 2,38 1,102
5 Được học viên yêu cầu đề nghị 1,86 1,206
*Mức độ tham gia hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật giữa các trường ĐHSP
Bảng 3. Mức độ tham gia hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật
Stt Nội dung Kết quả
TBC ĐLC
1 Tham gia hội thảo KH giữa các khoa trong trường 3,21 0,709
2 Tham gia hội thảo KH giữa các trường trong hệ thống SP 3,05 0,825
3 Tham gia hội thảo KH giữa các trường ngoài hệ thống SP 2,76 1,031
4 Tham gia hội thảo KH được tổ chức bởi các cơ quan ngànhnghề/hiệp hội 2,48 1,131
5 Tham gia hội thảo KH được tổ chức bởi một cơ quan quốctế ở nước ngoài 2,19 1,131
Ý kiến về mức độ tham gia hội nghị, hội thảo, sinh hoạt học thuật cho thấy bức
tranh khả quan hơn vì điểm trung bình hầu hết đều ở mức tốt và khá. Tuy nhiên, những
hình thức tham gia hội thảo nào có điểm trung bình cao thì độ phân tán trong câu trả lời
thấp. Việc các giảng viên được tham gia hội thảo giúp cho họ nâng cao chuyên môn của
họ tốt hơn, có nhiều cơ hội giao lưu và chia sẻ chuyên môn, mở rộng thông tin khoa học.
171
Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng
Kết quả phỏng vấn cũng cho thấy, giảng viên các trường tham gia hội thảo KH trong
nội bộ trường mang tính phổ biến, tiếp đó được đi dự hội thảo KH, sinh hoạt học thuật
giữa các trường SP, song nhiều khi việc xin kinh phí cũng có khó khăn, nên các trường
khó đáp ứng nhu cầu cho số đông giảng viên được tham gia.
Điều kiện tham gia hội thảo với các trường ngoài ngành SP rất hiếm xảy ra do “ít
liên quan đến chuyên môn”. Mặt khác, điều này cho thấy “tư duy liên kết KH” còn hạn
chế ở đội ngũ giảng viên. Mặt khác, do hạn chế kinh phí nên không dễ giảng viên tham
gia được. Việc tham gia hội thảo KH quốc tế rất hiếm khi xảy ra bởi kinh phí hạn chế
nhiều. Có lúc giảng viên viết bài cho hội thảo quốc tế, muốn đi phải bỏ kinh phí cá nhân.
* Việc sử dụng cơ sở vật chất trong liên kết NCKH giữa các trường sư phạm
Bảng 4. Việc sử dụng cơ sở vật chất chung trong liên kết NCKH
Stt Nội dung Kết quả
TBC ĐLC
1 Sử dụng các phòng học trong NCKH 3,35 0,948
2 Sử dụng phòng nghiệp vụ SP 2,68 1,171
3 Mượn tài liệu sách, các học liệu khác trong NCKH 3,49 0,827
4 Sử dụng máy tính, các máy móc liên quan đến NCKH 3,30 0,914
5 Sử dụng phòng thí nghiệm trong NCKH 2,79 1,180
Việc sử dụng CSVC chung trong liên kết nghiên cứu khoa học có được ý kiến đánh
giá tốt, đồng đều ở các tiêu chí. Tuy nhiên, có thể đây chỉ là nhận thức vấn đề thôi, còn
trong thực tế có thể không dễ dàng có kết quả như số liệu nghiên cứu thu được. Dù sao
đây cũng là tín hiệu đáng mừng vì góp phần “khai thông” cho sự liên kết.
Kết quả phỏng vấn cho thấy việc sử dụng nguồn CSVC chung của các trường ít
mang tính phổ biến vì cơ chế giao khoán để QL thuận tiện như: Các khoa QL riêng phòng
NVSP hoặc phòng thí nghiệm vì khoa sử dụng là chính. Nếu khoa/đơn vị khác muốn dùng
thì sang mượn ngang (các khoa sang làm việc trực tiếp) chứ không QL và điều phối chung
từ trường. Các phòng này không phải do nhà trường QL và có bộ phận điều phối riêng bởi
còn liên quan đến duy tu bảo dưỡng thường xuyên và kinh phí sửa chữa.
Sử dụng nguồn CSVC chung giữa các trường ĐHSP càng ít xảy ra vì các trường SP
không có bộ phận QL. Việc đầu tư các phòng thí nghiệm KH cho từng trường sử dụng
riêng, chưa đầu tư CSVC để các trường dùng chung theo vùng miền để giảm chi phí đầu tư.
Từ kết quả điều tra ở các bảng trên cho thấy hiện trong toàn ngành SP chưa có tập
hợp nguồn lực chung (tập hợp nguồn chuyên gia cao cấp, xây dựng các phòng thí nghiệm,
CSVC) tạo thành nguồn lực sử dụng chung nhằm nâng cao mặt bằng chất lượng chung về
ĐT và NCKH.
* Ý kiến về cơ chế liên kết trong NCKH
Ý kiến về cơ chế liên kết trong nghiên cứu khoa học cho thấy cần có sự thống nhất
trong quản lí từ phía nhà trường đến các khoa về mời các nhà khoa học có uy tín tham
gia nghiên cứu khoa học kết hợp với mời cộng sự tham gia NCKH theo nhu cầu cá nhân.
172
Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm
Trước hết cần có sự thấu hiểu chuyên môn và năng lực, khả năng hợp tác của các bên để
thuận lợi trong thực hiện nghiên cứu khoa học.
Cơ chế quản lí chung về cơ sở vật chất của trường cần được thực hiện để tạo sự
thuận tiện khi sử dụng và khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có.
Về cơ chế liên kết trong nghiên cứu khoa học qua các tiêu chí trên đều có sự nhất
trí cao trừ tiêu chí số 8 (Sử dụng cơ sở vật chất chung của trường bằng quan hệ cá nhân);
tuy nhiên, sự tập trung của các ý kiến vẫn không cao.
Bảng 5. Ý kiến về cơ chế liên kết trong NCKH
Stt Nội dung Kết quả
TBC ĐLC
1 Có sự thống nhất từ quản lí của nhà trường đến các khoa 3,33 0,919
2 Có sự thống nhất về chủ trương mời giảng viên cao cấpở trường khác tham gia giảng dạy/ thỉnh giảng 2,93 1,009
3 Thực hiện liên thông liên kết cấp khoa nên khoa tự mời 2,29 1,088
4 Có thống nhất chung về mời các nhà khoa học hợp tácNCKH 3,05 1,022
5 Có thống nhất chung về mời các nhà khoa học hợp tácNCKH không kể trong hay ngoài trường SP 3,10 0,878
6 Mời cộng sự tham gia NCKH theo nhu cầu của cá nhân 2,43 0,941
7 Có thống nhất chung về sử dụng trang thiết bị chungtrong ĐT và NCKH 3,33 0,846
8 Sử dụng CSVC chung của trường bằng quan hệ cá nhân 1,77 1,020
2.2.2. Ý kiến của cán bộ quản lí về liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các
trường sư phạm
* Về hoạt động NCKH của giảng viên trong trường sư phạm
Liên kết trong NCKH được thể hiện ở các khía cạnh: i) Nội dung của đề tài NCKH
có tính chất liên kết giữa các ngành KH với nhau; ii) Tổ chức liên kết cùng thực hiện đề
tài NCKH; iii) Liên kết giữa các đơn vị (nhà trường với doanh nghiệp, tổ chức XH, trường
phổ thông) trong NCKH.
Liên kết trong nghiên cứu khoa học nhìn chung được đánh giá ở mức khá cao, chỉ
riêng tiêu chí: “Làm chủ nhiệm đề tài giữa các khoa học (khoa học cơ bản với khoa học
giáo dục) của khoa mình” thì điểm số có giá trị tuyệt đối cao hơn các tiêu chí khác, song
cũng nằm trong giới hạn mức khá. Độ phân tán của các nhận định ở nội dung này cũng
rất cao.
Mức độ làm chủ nhiệm đề tài liên kết trong nội bộ khoa có điểm cao nhất và dễ liên
kết với các thành viên trong nội bộ. Liên kết trong nghiên cứu khoa học có sự kết hợp với
các đơn vị khác trong trường cũng giảm dần, kể cả mức độ làm chủ nhiệm cũng như tham
gia nghiên cứu đề tài khoa học.
173
Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng
Làm chủ nhiệm cũng như tham gia thực hiện cùng những đề tài mang tính liên kết
các ngành khoa học cũng thấp dần khi kết hợp với khoa khác và trường sư phạm khác
trong hệ thống sư phạm. Việc liên kết nghiên cứu với trường PT cũng như với tổ chức XH,
doanh nghiệp có ý kiến chưa cao. Điều này phản ảnh về sự hợp tác và liên kết trong lĩnh
vực khoa học giáo dục chưa thật cao với các trường phổ thông ít được quan tâm.
Kết quả phỏng vấn trực tiếp cho biết: Giảng viên các khoa làm chủ nhiệm đề tài
cấp khoa bởi đề tài này thường được giao thực hiện hàng năm. Còn đề tài cấp bộ, cấp nhà
nước khó đấu thầu được. Mặt khác, các giảng viên đều cảm thấy quá bận với công tác
giảng dạy và các nhiệm vụ khác của trường giao, nên ít hào hứng với hoạt động nghiên
cứu khoa học, bởi hoạt động nghiên cứu khoa học rất khó, trong khi nguồn kinh phí cho
nghiên cứu khoa học chỉ ở mức khiêm tốn.
Bảng 6. Liên kết hoạt động NCKH của giảng viên giữa các trường sư phạm
Stt Nội dung Kết quả
TBC ĐLC
1 Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) củakhoa mình 3,13 0,819
2 Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) vớicác khoa khác trong trường 2,74 0,773
3 Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD)