Nếu nhưnăm 2007 được đánh giá là năm đánh dấu sựphát triển nhanh chóng
và toàn diện của TTDT thì năm 2008 là năm TTDT thực sựkhởi sắc và đi vào cuộc
sống.
Theo Phó cục trưởng Cục TMDT và CNTT BộCông Thương - Trần Hữu Linh,
với 65% người tiêu dùng có tìm hiểu thông tin vềsản phẩm trước khi mua, 27% các
hoạt động mua sắm trực tuyến, cộng thêm sốngười sửdụng Internet chiếm tới 25%
dân số, Việt Nam đang có những thuận lợi lớn trong việc phát triển TMDT trong đó có
TTTT. Tỷlệthanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán giảm xuống
còn 14 % (năm 2007 là 18%). Sốlượng website TMDT cung cấp dịch vụTTTT có sự
phát triển nhảy vọt. Nếu năm 2007 chỉcó một vài website TMDT cung cấp dịch vụ
này thì năm 2008 đã có trên 50 website của các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau nhưngân hàng, hàng không, du lịch, siêu thịbán hàng tổng hợp triển khai
thành công việc cung cấp dịch vụTTTT cho khách hàng
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 3115 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng thanh toán điện tử ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng thanh toán điện tử ở
VN hiện nay
Nếu như năm 2007 được đánh giá là năm đánh dấu sự phát triển nhanh chóng
và toàn diện của TTDT thì năm 2008 là năm TTDT thực sự khởi sắc và đi vào cuộc
sống.
Theo Phó cục trưởng Cục TMDT và CNTT Bộ Công Thương - Trần Hữu Linh,
với 65% người tiêu dùng có tìm hiểu thông tin về sản phẩm trước khi mua, 27% các
hoạt động mua sắm trực tuyến, cộng thêm số người sử dụng Internet chiếm tới 25%
dân số, Việt Nam đang có những thuận lợi lớn trong việc phát triển TMDT trong đó có
TTTT. Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán giảm xuống
còn 14 % (năm 2007 là 18%). Số lượng website TMDT cung cấp dịch vụ TTTT có sự
phát triển nhảy vọt. Nếu năm 2007 chỉ có một vài website TMDT cung cấp dịch vụ
này thì năm 2008 đã có trên 50 website của các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau như ngân hàng, hàng không, du lịch, siêu thị bán hàng tổng hợp …triển khai
thành công việc cung cấp dịch vụ TTTT cho khách hàng.
Xét về thị trường bán lẻ, có đến 65% số người mua hàng tìm kiếm thông tin về
mẫu mã, thông số kỹ thuật, giá cả của sản phẩm qua Internet trước khi quyết định mua
hàng. Trong số đó, có gần 30% - chủ yếu là giới trẻ - có quyết định mua hàng chịu ảnh
hưởng của Internet[3].
Xét doanh thu mà doanh nghiệp thu được từ TMDT cũng có chiều tích cực.
35,6% doanh nghiệp có doanh thu từ TMDT chiếm dưới 5% trong tổng doanh thu,
trong đó là có tới 38,07% doanh nghiệp có doanh thu từ TMDT chiếm trên 15% trong
tổng doanh thu của mình (số liệu năm 2008).
Hình Cơ cấu doanh thu từ TMDT năm 2008
Khi so sánh số liệu các năm trước thì có thể thấy rằng TMDT ngày càng góp
phần nhiều trong tổng doanh thu của doanh nghiệp, doanh thu TMDT chiếm trên 15%
trong tổng doanh thu năm 2008 tăng 4% so với năm 2007 và mức doanh thu từ TMDT
chiếm dưới 5% trong tổng doanh thu năm 2008 đã giảm 9% so với năm 2007, và đây
là điều phù hợp với xu thế phát triển chung của thị trường.
Hình Chuyển biến doanh thu từ TMDT qua các năm
Những con số này cho thấy nhu cầu bức thiết trong lĩnh vực TMDT của các
doanh nghiệp Việt Nam. Đã đến lúc các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ nên tích hợp chức năng TTDT vào Website của mình", ông Trần Hữu Linh
nhấn mạnh.
Hình thức nhận đơn đặt hàng của doanh nghiệp từ 2006-2008
Hình thức đặt hàng của doanh nghiệp cũng có sự thay đổi, các hình thức đặt
hàng qua thư điện tử, fax hoặc điện thoại ngày càng tăng cụ thể năm 2008 hình thức
đặt hàng qua thư điện tử tăng 5% và đặt hàng qua fax tăng 15,5%, đặt hàng qua điện
thoại tăng 15% so với năm 2007.
Các phương thức thanh toán sử dụng từ 2006-2008
Các phương thức thanh toán được sử dụng trong năm 2008 vẫn chủ yếu là tiền
mặt chiếm 74,1% và chuyển khoản qua ngân hàng là 74,8%. Hình thức thanh toán trực
tuyến năm 2008 chiếm 3,5% giảm 18,6 % so với năm 2007.
Hình 2.7 Tương quan giữa doanh thu B2B và B2C
Các hình thức TMDT tại Việt Nam chủ yếu vẫn là B2B, còn B2C tại Việt Nam
hiện tại vẫn chỉ là rao vặt. Doanh thu bằng hình thức B2B chiếm 67% tổng doanh thu
TMDT, còn hình thức B2C chỉ chiếm 33%. Cần tạo ra các hành lang pháp lý và
phương tiện thanh toán hữu hiệu để tăng tỷ trọng doanh thu từ hình thức B2C trong
tổng doanh thu TMDT thì mới có thể khẳng định được nền kinh tế Việt Nam là nền
kinh tế hiện đại.
Số liệu thống kê của Vụ TMDT và CNTT - Bộ Công Thương: Nhờ có TMDT,
thời gian và chi phí giao dịch của mỗi doanh nghiệp cũng giảm đáng kể. Ước tính, thời
gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 70% so với giao dịch qua fax và bằng 5% so với
giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch
thông qua bưu điện. Chưa kể, thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan hệ
với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời, việc cá biệt hóa
sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố lòng
trung thành.
Đến hết năm 2008 có 39 tổ chức ngân hàng đã phát hành khoảng 13,4 triệu thẻ
thanh toán, tăng 46% so với năm 2007. Toàn hệ thống ngân hàng đã lắp đặt và đưa vào
sử dụng 7,051 máy ATM, tăng trên 46% so với năm 2007, số lượng máy POS đạt trên
24,000 chiếc. Hệ thống thanh toán của liên minh thẻ lớn nhất cả nước là Banknetvn -
Smartlink với trên 90% thị trường thẻ toàn quốc đã được kết nối lưu thông. Nhiều
doanh nghiệp đã quan tâm bố trí cán bộ chuyên trách về TMDT.
Theo thống kê tại Việt Nam trong năm 2008 thì chỉ có 20% dân số có thẻ ghi
nợ và 1% dân số có thẻ tín dụng tại các ngân hàng trong và ngoài nước. Cụ thể: thẻ nội
địa: 11,827,246 chiếc; tăng 31,13% so với năm 2007 (9,019,067 chiếc); thẻ quốc tế:
1,311,843 chiếc; tăng 145,69% so với năm 2007 (533,933 chiếc). Và trong vòng 3 năm
trở lại đây tỷ lệ tăng trưởng của thẻ thanh toán là 381% (năm 2008 so với năm 2005),
đây là con số mang nhiều ý nghĩa về một thị trường nhiều tiềm năng của Việt Nam.
Hình 2.8 Quy mô thẻ nội địa và thẻ quốc tế tại Việt Nam