Thực trạng tích hợp giáo dục môi trường trong môn Sinh học tại các trường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ

1. Mở đầu Theo định hướng chung của nhiều hệ thống giáo dục trên thế giới, giáo dục môi trường (GDMT) không chủ trương ghép thêm vào chương trình giáo dục một chủ đề hay một môn học riêng biệt mới, mà chủ yếu tích hợp, lồng ghép các vấn đề môi trường vào các nội dung môn học sẵn có. Tích hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết một vấn đề, qua đó đạt được nhiều mục tiêu khác nhau [1], [2]. Như vậy, tích hợp GDMT là cách thức, con đường mà thông qua các môn học hay hoạt động giáo dục khác nhau, người dạy liên hệ các vấn đề môi trường vào nội dung giảng dạy để đạt được các mục tiêu GDMT. Phương pháp tích hợp, lồng ghép các nội dung môi trường vào các môn học đang là xu hướng được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia như Botswana, Tanzania, Uganda, Nigeria, New Zealand, Trung Quốc và Jamaica [3], [4]. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước cũng đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm định hướng cho quá trình phát triển bền vững, bao gồm Quyết định số 1363/QĐ-TTg năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống quốc dân” [5], Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2010 và định hướng đến năm 2020 [6]. Bên cạnh đó, Bộ GD-ĐT cũng ban hành nhiều chỉ thị để phát triển GDMT, bao gồm Chỉ thị số 02/2005/CT-BGDĐT năm 2005 về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường” [7]; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh (HS) tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 [8]. Theo đó, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ chức triển khai các nhiệm vụ về GDMT, đưa nội dung GDMT vào trường học. TP. Cần Thơ là đô thị loại 1 của Việt Nam, đồng thời là thành phố trực thuộc trung ương nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu của Trần Thị Hậu (2013) [9] tại TP. Cần Thơ cho thấy, GDMT đã và đang được triển khai ở tất cả các cấp học, trong đó ở cấp trung học phổ thông (THPT), các môn Sinh học, Địa lí, Công nghệ, Giáo dục công dân có tỉ lệ tích hợp GDMT là cao nhất; tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được thực trạng về nội dung và phương pháp tích hợp GDMT ở từng môn học. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi phân tích thực trạng nội dung và phương pháp tích hợp GDMT thông qua giảng dạy các chủ đề Sinh học lớp 10, 11, 12 tại 7 trường THPT trên địa bàn TP. Cần Thơ.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng tích hợp giáo dục môi trường trong môn Sinh học tại các trường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 469 (Kì 1 - 1/2020), tr 48-54; 5 48 Email: tthanhthao@ctu.edu.vn THỰC TRẠNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG MÔN SINH HỌC TẠI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ Trần Thanh Thảo - Trần Ngọc Trân - Nguyễn Phan Ngọc Tường Vi Trường Đại học Cần Thơ Ngày nhận bài: 05/10/2019; ngày chỉnh sửa: 11/11/2019; ngày duyệt đăng: 20/11/2019. Abstract: The study was conducted on Biology teachers of grade 10, 11 and 12 from 7 high schools in Can Tho City. The results showed that teachers flexibly infused and integrated environmetal issues into Biological themes in the school curriculum. Many teaching methods were used during the integration, in which, teaching methods such as conversation, problem solving and group discussion are used by teachers with high priority. Keywords: Environmental education, infusion, integration, biological themes, method. 1. Mở đầu Theo định hướng chung của nhiều hệ thống giáo dục trên thế giới, giáo dục môi trường (GDMT) không chủ trương ghép thêm vào chương trình giáo dục một chủ đề hay một môn học riêng biệt mới, mà chủ yếu tích hợp, lồng ghép các vấn đề môi trường vào các nội dung môn học sẵn có. Tích hợp là một hoạt động mà ở đó cần phải kết hợp, liên hệ, huy động các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết một vấn đề, qua đó đạt được nhiều mục tiêu khác nhau [1], [2]. Như vậy, tích hợp GDMT là cách thức, con đường mà thông qua các môn học hay hoạt động giáo dục khác nhau, người dạy liên hệ các vấn đề môi trường vào nội dung giảng dạy để đạt được các mục tiêu GDMT. Phương pháp tích hợp, lồng ghép các nội dung môi trường vào các môn học đang là xu hướng được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia như Botswana, Tanzania, Uganda, Nigeria, New Zealand, Trung Quốc và Jamaica [3], [4]. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước cũng đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhằm định hướng cho quá trình phát triển bền vững, bao gồm Quyết định số 1363/QĐ-TTg năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống quốc dân” [5], Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2010 và định hướng đến năm 2020 [6]. Bên cạnh đó, Bộ GD-ĐT cũng ban hành nhiều chỉ thị để phát triển GDMT, bao gồm Chỉ thị số 02/2005/CT-BGDĐT năm 2005 về việc “Tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường” [7]; Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh (HS) tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 [8]. Theo đó, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ chức triển khai các nhiệm vụ về GDMT, đưa nội dung GDMT vào trường học. TP. Cần Thơ là đô thị loại 1 của Việt Nam, đồng thời là thành phố trực thuộc trung ương nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu của Trần Thị Hậu (2013) [9] tại TP. Cần Thơ cho thấy, GDMT đã và đang được triển khai ở tất cả các cấp học, trong đó ở cấp trung học phổ thông (THPT), các môn Sinh học, Địa lí, Công nghệ, Giáo dục công dân có tỉ lệ tích hợp GDMT là cao nhất; tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được thực trạng về nội dung và phương pháp tích hợp GDMT ở từng môn học. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi phân tích thực trạng nội dung và phương pháp tích hợp GDMT thông qua giảng dạy các chủ đề Sinh học lớp 10, 11, 12 tại 7 trường THPT trên địa bàn TP. Cần Thơ. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp và phương tiện nghiên cứu Về điều tra và khảo sát thực tế, nghiên cứu này được triển khai dưới hai hình thức chính: điều tra thông qua phiếu khảo sát và dự giờ giảng dạy chuyên môn. Trong một số trường hợp, giáo án giảng dạy của giáo viên (GV) cũng được phân tích để bổ sung thêm thông tin cho kết quả khảo sát. Khảo sát được tiến hành trên 27 GV giảng dạy môn Sinh học thuộc 07 trường THPT ở nội thành TP. Cần Thơ. Các trường có GV tham gia khảo sát bao gồm: Châu Văn Liêm, Bùi Hữu Nghĩa, Lý Tự Trọng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Việt Hồng, Nguyễn Việt Dũng. Các GV tham gia khảo sát được chọn ngẫu nhiên, có giới tính, độ tuổi và trình độ (cử nhân, thạc sĩ) khác nhau. Số liệu và thông tin được phân tích từ tháng 5-10/2019. Trong khâu tiến hành khảo sát, giai đoạn đầu tiên là xin giấy giới thiệu của đơn vị quản lí nghiên cứu (Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ) để được sự phê duyệt của Sở GD-ĐT TP. Cần Thơ trước khi làm việc với Ban Giám hiệu và GV các trường THPT. Sau khâu khảo sát thông tin là quá trình xử lí số liệu thu thập được, VJE Tạp chí Giáo dục, Số 469 (Kì 1 - 1/2020), tr 48-54; 5 49 phần thống kê các phương pháp tích hợp GDMT được thực hiện nhờ phần mềm SPSS, đồ thị được minh hoạ bằng phần mềm Excel. Quá trình xử lí số liệu SPSS bao gồm các bước mã hóa số liệu, khai báo biến, xử lí trên biến, tạo bảng tần số và mô tả thông tin bằng đồ thị [10]. 2.2. Kết quả khảo sát 2.2.1. Thực trạng các chủ đề sinh học được tích hợp giáo dục môi trường Ở khối lớp 10, các nội dung thuộc chủ đề sinh học liên quan đến các cấp độ tổ chức của thế giới sống, sinh học tế bào, sinh học vi sinh vật và virus đã được lồng ghép với GDMT một cách đa dạng (bảng 1). Về các cấp độ tổ chức của thế giới sống, các GV đã giới thiệu mối liên hệ giữa môi trường và độ đa dạng sinh học của các loài, đồng thời hình thành và phát triển cho HS thái độ đúng đắn trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ độ đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, các biện pháp giảm thiểu và phòng chống thiên tai để nâng cao kĩ năng ứng phó với biến đổi khí hậu cũng được đề cập. Về chủ đề Sinh học tế bào, các nội dung như giữ gìn vệ sinh thân thể để phòng chống các bệnh do vi khuẩn mang lại, bón phân hoá học đúng liều lượng và nâng cao ý thức bảo vệ rừng đã được lồng ghép trong nội dung giảng dạy. Ở chủ đề Sinh học vi sinh vật và virus, sự tận dụng các vi sinh vật và sản phẩm của chúng để phát triển phân bón vi sinh, khí sinh học, giảm thiểu việc sử dụng các loại phân bón hoá học đã được GV lồng ghép, qua đó hình thành cho HS thái độ và kĩ năng vận dụng các kiến thức sinh học để bảo vệ môi trường. Bảng 1. Thực trạng các chủ đề sinh học được tích hợp với GDMT ở khối 10 Các chủ đề sinh học/ Địa chỉ tích hợp Nội dung tích hợp Các cấp độ tổ chức của thế giới sống Sự đa dạng các cấp tổ chức sống tạo nên sự đa dạng của thế giới sinh vật. Thiên tai (bão lụt, sóng thần, động đất,...) có thể được gây ra do biến đổi khí hậu, làm giảm đa dạng sinh học. Do đó, chúng ta cần có biện pháp để phòng chống thiên tai: trồng cây xanh, tuyên truyền bảo vệ môi trường. Tế bào nhân sơ Vi khuẩn có cấu tạo từ tế bào nhân sơ, có kích thước nhỏ, phân bố rộng, sinh sản nhanh. Khi con người bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh, chúng có thể sinh sản nhanh làm tăng tốc độ lây truyền. Vì vậy, để hạn chế bệnh do vi khuẩn gây ra, chúng ta cần phải giữ gìn môi trường sống luôn trong sạch. Enzyme và vai trò của enzyme trong sự chuyển hóa vật chất. Enzyme có bản chất là protein và có thể bị mất hoạt tính khi ở nhiệt độ cao. Hiện tượng nóng lên toàn cầu làm ảnh hưởng đến hoạt tính của enzyme trong tế bào, từ đó ảnh hưởng đến đời sống của sinh vật trên trái đất. Các biện pháp bảo vệ môi trường để giảm thiểu những rủi ro do biến đổi khí hậu mang lại cần được triển khai. Hiện tượng kháng thuốc trừ sâu ở côn trùng do sự xuất hiện các cá thể mang đột biến ở những gen có khả năng tổng hợp enzyme phân giải loại thuốc đó. Khi tăng liều lượng thuốc, hiệu quả trừ sâu kém, gây ô nhiễm môi trường. Do đó, chúng ta không nên sử dụng thuốc trừ sâu hoá học quá liều, tăng cường sử dụng thuốc trừ sâu vi sinh để giảm ô nhiễm môi trường. Quang hợp Sự điều hoà không khí do quá trình quang hợp ở cây xanh cần thiết cho cuộc sống của con người và các loài sinh vật. Do đó, chúng ta cần tuyên truyền trồng rừng, phục hồi rừng, chống phá rừng. Quá trình phân giải các chất ở vi sinh vật Sự phân giải xác động vật và thực vật nhờ vi sinh vật là cơ sở chế biến rác thải hữu cơ thành phân bón, góp phần làm sạch môi trường. Trong xử lí rác thải, cần phân loại rác để có kế hoạch tái sử dụng rác thải hữu cơ. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của vi sinh vật Chúng ta có thể bảo vệ vi sinh vật có lợi trong môi trường bằng cách hạn chế thải ra môi trường các các chất hóa học hoặc các yếu tố vật lí độc hại kìm hãm sự hoạt động của chúng. Con người có thể khai thác vi sinh vật có lợi và các sản phẩm của chúng để phục vụ cho các nhu cầu sống, giảm bớt sự lệ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ: sử dụng biogas thay cho các nhiên liệu hoá thạch truyền thống (than, củi, rơm rạ). Biogas là sản phẩm hỗn hợp khí được sinh ra từ quá trình phân hủy kị khí của phân động vật và những hợp chất hữu cơ lên men dưới tác động của các vi sinh vật. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 469 (Kì 1 - 1/2020), tr 48-54; 5 50 Virus gây bệnh và ứng dụng Đặc tính xâm nhập và lây lan của virus vào côn trùng là cơ sở để sản xuất thuốc trừ sâu sinh học, giảm ô nhiễm môi trường. Một số virus gây bệnh cho động vật được ứng dụng để kìm hãm các động vật gây hại mùa màng (ví dụ: chuột, thỏ) khi chúng phát triển quá mức, gây mất cân bằng sinh thái. Trong nông nghiệp, chúng ta có thể sử dụng phương pháp đấu tranh sinh học thay cho các chất hoá học để bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe con người. Bệnh truyền nhiễm và miễn dịch Chúng ta cần có ý thức giữ vệ sinh môi trường sạch sẽ để loại trừ, hạn chế các ổ vi sinh vật gây bệnh. Nội dung sinh học ở lớp 11 có nhiều chủ đề cho phép tích hợp GDMT. Qua các nội dung thuộc chủ đề Sinh lí thực vật, GV nhấn mạnh cho HS thấy các tác hại của việc sử dụng phân bón hoá học quá liều và tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng để điều hoà không khí, góp phần giảm thiểu các hệ quả của biến đổi khí hậu. Ở chủ đề Sinh lí động vật, việc bảo vệ nguồn gen của các động vật hoang dã, động vật quý hiếm đã được GV lồng ghép với nội dung bài học (bảng 2). Bên cạnh đó, GV cũng giúp HS phát triển các thái độ đúng đắn với môi trường như hạn chế rác thải, khí thải, nâng cao ý thức về điều hoà dân số và bảo vệ môi trường. Bảng 2. Thực trạng các chủ đề sinh học được tích hợp với GDMT ở khối 11 Các chủ đề sinh học Nội dung tích hợp Sự hấp thụ nước và muối khoáng ở rễ Trồng cây đúng mật độ, khoảng cách, xen canh hợp lí. Có ý thức bón phân, tưới nước hợp lí, giữ môi trường ổn định. Vai trò của các nguyên tố khoáng Bón phân quá liều lượng cho cây trồng làm giảm năng suất nông sản, gây ô nhiễm môi trường đồng thời gây hại cho sức khỏe của con người và động vật. Do đó, cần bón phân đúng liều lượng, đúng cách. Dinh dưỡng nitơ ở thực vật Cây hấp thụ nitơ dưới dạng NH4 + và NO3 - chủ yếu từ phân bón; tuy nhiên, sử dụng quá nhiều phân bón sẽ gây lãng phí và ô nhiễm môi trường. Do đó, cần kiểm soát liều lượng khi sử dụng phân bón hoá học. Quang hợp ở thực vật Quá trình quang hợp ở cây xanh giúp điều hòa không khí (hấp thụ CO2, giải phóng O2), góp phần ngăn chặn hiệu ứng nhà kính. Trong chuyển hoá năng lượng, quang hợp tạo nguồn hữu cơ cung cấp cho toàn bộ sinh giới, góp phần giữ cân bằng sinh thái. Do đó, chúng ta cần nâng cao ý thức bảo vệ rừng và khai thác tài nguyên rừng hợp lí, tránh nguy cơ rừng bị cạn kiệt, ảnh hưởng lớn đến môi sinh. Ảnh hưởng của các nhân tố ngoại cảnh đến quang hợp Quang hợp ở cây xanh có quan hệ chặt chẽ với môi trường. Môi trường ô nhiễm (hàm lượng CO2 tăng quá ngưỡng) gây ức chế quang hợp. Do đó, chúng ta cần chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi cho quang hợp. Quang hợp và năng suất cây trồng Chúng ta cần cung cấp nước, bón phân và chăm sóc cây trồng hợp lí, tạo điều kiện cho cây hấp thụ và chuyển hóa năng lượng tốt, góp phần bảo vệ môi trường. Hô hấp ở thực vật Hô hấp chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường: O2, nước, nhiệt độ, CO2... Nồng độ CO2 trong môi trường cao ức chế hô hấp. Trồng nhiều cây xanh có thể hạn chế khí thải. Tiêu hóa ở động vật Các mắt xích động vật trong chuỗi và lưới thức ăn có vai trò quan trọng, đảm bảo sự cân bằng sinh thái. Ô nhiễm môi trường có thể là nguyên nhân gây diệt vong các loài động, thực vật. Vì vậy, chúng ta cần nâng cao ý thức bảo vệ động vật, thực vật và môi trường sống của chúng, đặc biệt là tăng cường bảo tồn sinh học đối với các loài động vật hoang dã quý hiếm. Tập tính của động vật Biến đổi khí hậu cùng với việc săn bắt các động vật hoang dã làm mất cân bằng sinh thái. Do đó, để bảo vệ nguồn gen quý hiếm, bảo vệ độ đa dạng sinh học chúng ta cần lên án hành động săn bắt động vật hoang dã. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tạo điều kiện sống thật tốt để chúng sinh sản và tăng nhanh số lượng. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 469 (Kì 1 - 1/2020), tr 48-54; 5 51 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của động vật - Biến đổi khí hậu đã làm cho động vật ngày càng khó thích ứng được với môi trường, nhiều loài động vật mắc phải dịch bệnh và chết dẫn đến mất cân bằng sinh thái, giảm độ đa dạng sinh học. Do đó cần bảo vệ môi trường sống của vật nuôi, tạo điều kiện tốt nhất cho vật nuôi sống và phát triển. - Dân số quá đông đã tạo nhiều gánh nặng cho xã hội, bao gồm gánh nặng về môi trường. Hoạt động của con người càng nhiều thì môi trường ngày càng ô nhiễm: rác thải bừa bãi, khí thải từ các khu công nghiệp, ô nhiễm do khói, bụi của phương tiện giao thông Do đó, chúng ta cần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống, hạn chế hút thuốc lá, giảm ô nhiễm môi trường từ khói thuốc, tăng cường sử dụng các phương tiện công cộng để hạn chế khí thải. Điều khiển sinh sản ở động vật và sinh đẻ có kế hoạch ở người Dân số tăng nhanh làm gia tăng chất thải sinh hoạt, khói bụi, chất thải từ các dịch vụ, y tế... Do đó, chúng ta cần tuyên truyền, vận động cộng đồng thực hiện tốt sinh đẻ có kế hoạch, giảm bớt sức ép của dân số lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Ở lớp 12, các nội dung thuộc chủ đề Di truyền học đã được GV lồng ghép để giáo dục cho HS tầm quan trọng của việc giữ gìn môi trường, qua đó bảo vệ vốn gen và độ đa dạng sinh học của các loài. Thông qua chủ đề Sinh thái học, GV cũng giúp HS hình thành thái độ thân thiện với môi trường, rèn luyện thói quen giữ gìn môi trường, xây dựng và phát triển các hệ sinh thái, đồng thời khai thác và sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên (bảng 3). Việc lồng ghép các vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu với các chủ đề giảng dạy Sinh thái học ở khối 12 cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề xuất [11]. Trong các nội dung khảo sát, việc lồng ghép chủ đề Tiến hoá với nội dung GDMT chưa được ghi nhận. Trong quá trình điều tra, do tính chất áp lực công việc giảng dạy và thi cử ở khối 12 nên việc dự giờ các GV khối 12 có phần hạn chế hơn so với dự giờ các GV ở khối 10 và khối 11. Bảng 3. Thực trạng các chủ đề sinh học được tích hợp với GDMT ở khối 12 Các chủ đề sinh học Nội dung tích hợp Gen, mã di truyền và quá trình nhân đôi ADN Sự đa dạng của gen chính là sự đa dạng di truyền (đa dạng vốn gen) của sinh giới. Ngày nay, biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra nhiều đột biến gen có hại cho sức khỏe con người, làm ảnh hưởng đến vốn gen của con người và các loài sinh vật. Do đó, bảo vệ và gìn giữ môi trường cũng chính là bảo vệ vốn gen cho con người và các động vật, đặc biệt là các loài động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Đột biến gen Các tác nhân gây đột biến có thể là tia vật lí, tia tử ngoại, chất hóa học. Việc bảo vệ môi trường bằng cách trồng nhiều cây xanh đề điều hoà không khí, bảo vệ tầng ozôn có thể hạn chế ảnh hưởng của các tác nhân trên. Nhiễm sắc thể và đột biến cấu trúc nhiễm sắc thể Các tác nhân môi trường như tia tử ngoại, chất ô nhiễm có thể dẫn đến các đột biến có hại. Do đó, chúng ta cần bảo vệ môi trường sống, tránh các hành vi gây ô nhiễm môi trường, hạn chế thải các chất độc hại có nguy cơ gây đột biến ra môi trường. Quy luật Menden: quy luật phân li độc lập Sự xuất hiện các biến dị tổ hợp tạo nguồn nguyên liệu cho tiến hóa và chọn giống, tạo độ đa dạng loài, góp phần gia tăng đa dạng sinh học. Do đó, chúng ta cần có kế hoạch bảo vệ động vật hoang dã và môi trường sống của chúng để gia tăng đa dạng sinh học. Liên kết gen và hoán vị gen Các tác nhân môi trường có thể làm đứt gãy nhiễm sắc thể mang các gen liên kết và làm mất gen. Vì vậy, cần bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn gen nguyên vẹn. Ô nhiễm môi trường có thể làm tăng nguy cơ thủng tầng ozôn, tăng nguy cơ gây hại của các tia tử ngoại. Ảnh hưởng của môi trường lên sự biểu hiện của gen Có rất nhiều yếu tố của môi trường ảnh hưởng đến sự biểu hiện của kiểu gen (nhiệt độ, độ pH, độ ẩm). Do đó, cần bảo vệ môi trường sống, tạo điều kiện cho gen biểu hiện ở trạng thái tốt nhất. Cần tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường như trồng cây, vận động người dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường như hạn chế rác thải, khí thải, VJE Tạp chí Giáo dục, Số 469 (Kì 1 - 1/2020), tr 48-54; 5 52 Bảo vệ vốn gen của loài người và một số vấn đề xã hội của di truyền học Để giảm thiểu gánh nặng di truyền do các tác nhân đột biến từ môi trường gây ra, chúng ta cần xây dựng hệ thống xử lí nước thải ở các khu công nghiệp, hạn chế sử dụng phân hóa học, trồng cây gây rừng để mang lại lá phổi xanh cho cộng đồng. Môi trường sống và các nhân tố sinh thái Mỗi loài sinh vật có một giới hạn sinh thái nhất định, do đó cần lựa chọn môi trường sống thích hợp cho sinh vật. Khi môi trường sống thay đổi sẽ ảnh hưởng lớn đến sự sống của sinh vật, cần có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn sự suy thoái của môi trường để bảo vệ cuộc sống cho sinh vật cũng như cuộc sống của loài người. Các em HS không nên vứt rác bừa bãi, thường xuyên vệ sinh trường, lớp, nơi ở để mang lại bầu không khí trong lành. Bên cạnh đó, cần rèn luyện kĩ năng phân tích các yếu tố môi trường và xây dựng ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên. Hệ sinh thái Mất cân bằng sinh thái gây nhiều hậu quả xấu cho sinh vật và con người. Do đó, chúng ta cần tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường, giữ cân bằng hệ sinh thái. Ví dụ: trồng rừng, trồng cây xanh quanh khu vực sống, tích cực trong việc tuyên truyền, vận động mọi người bảo vệ hệ sinh thái. Chúng ta cần bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên và xây dựng hệ sinh thái nhân tạo, giúp khai thác và nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Trao đổi vật chất trong hệ sinh thái Bảo vệ môi trường sống cũng chính là bảo vệ hệ sinh thái, do đó chúng ta cần hạn chế khí thải vào môi trường, trồng cây xanh, phòng chống việc săn bắt động vật hoang dã bừa bãi. Chu trình sinh địa hóa và sinh quyển Dân số cao làm tăng hiệu ứng nhà kính. Khí CO2 thải vào bầu khí quyển ngày càng tăng (do hô hấp, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, núi lửa) góp phần gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Do đó, cần bảo vệ môi trường không khí, đất, nước, trồng cây xanh giảm lượng khí thải vào môi trường. Trong sinh hoạt, cần sử dụng hợp lí, tiết kiệm nguồn nước sạch. Đối với các nguồn tài nguyên không tái sinh, cần khai thác sử dụng tiết kiệm một cách hợp lí. 2.2.2. Thực trạng các phương pháp sử dụng để lồng ghép, tích hợp giáo dục môi trường trong giảng dạy Sinh học Ở môn Sinh học, tổng số bài khảo sát có tích hợp nội dung GDMT là 33 bài trên cả ba khối lớp 10, 11, 12. Phương pháp đàm thoại có mức độ sử dụng nhiều nhất, theo sau là phương pháp thảo luận nhóm, đặt và giải quyết vấn đề. Các phương pháp còn lại được sử dụng với các mức độ khác nhau, cụ thể (xem hình): Hình. Mức độ sử dụng các phương pháp khác nhau trong dạy học tích hợp GDMT 87,87% 60,60% 60,60% 21,21% 18,18% 30,30% 9,09% 6,06% 3,03% 0.00% ĈjPWKRҥL ĈһWYjJLҧLTX\ӃWYҩQÿӅ 7KҧROXұQQKyP .KDLWKiFNLQKQJKLӋPWKӵFWӃ 6ӱ
Tài liệu liên quan