Tóm tắt. Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp để phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn
La là vấn đề có ý nghĩa lớn. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, bài báo đánh giá
được thực trạng và đề xuất được các giải pháp phát triển nông nghiệp như: Giải pháp về tái
cơ cấu ngành nông nghiệp, về cơ chế chính sách, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. . .
Các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy nông nghiệp của Sơn La phát triển theo hướng bền
vững, giúp đồng bào các dân tộc xóa đói, giảm nghèo.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0025
Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 167-176
This paper is available online at
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA
Đỗ Thúy Mùi
Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt. Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp để phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn
La là vấn đề có ý nghĩa lớn. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, bài báo đánh giá
được thực trạng và đề xuất được các giải pháp phát triển nông nghiệp như: Giải pháp về tái
cơ cấu ngành nông nghiệp, về cơ chế chính sách, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. . .
Các giải pháp này sẽ góp phần thúc đẩy nông nghiệp của Sơn La phát triển theo hướng bền
vững, giúp đồng bào các dân tộc xóa đói, giảm nghèo.
Từ khóa: Tái cơ cấu ngành nông nghiệp, bền vững, tiềm năng, giải pháp, lương thực.
1. Mở đầu
Sơn La nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, kinh tế còn khó khăn. 78% dân số của tỉnh sống
bằng nghề nông nghiệp [2]. Nhưng ngành nông nghiệp đang canh tác thiếu bền vững, các sản
phẩm nông nghiệp chủ yếu là lương thực, thực phẩm để tự cung, tự cấp. Để giúp cho Sơn La phát
triển nông nghiệp bền vững cũng đã có nhiều nhà quan tâm nghiên cứu. Có tác giả nghiên cứu,
đánh giá về tiềm năng, thực trạng phát triển ngành nông – lâm – ngư nghiệp như Lưu Thị Ánh
Thảo [7], có tác giả nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của tỉnh như Tòng Thị Quỳnh
Hương [3]. Tuy nhiên, chưa có công trình nào quan tâm, nghiên cứu và đánh giá đầy đủ thực trạng
phát triển nông nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp phát triển. Bài báo sẽ đánh giá thực trạng
và đề xuất giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La theo hướng bền vững.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Bài báo nghiên cứu thực trạng và các giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La. Phạm
vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Sơn La, với diện tích tự nhiên là 14.055 km2 bao gồm 11 huyện
thị và thành phố. Nội dung nghiên cứu tập trung chủ yếu vào đánh giá thực trạng phát triển nông
nghiệp và đề xuất các giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững. Các dữ liệu số liệu được cung
cấp chủ yếu từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Niên giám thống kê của tỉnh qua các năm,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của các huyện và các kiến thức thực tiễn qua những
lần đi nghiên cứu thực địa.
Ngày nhận bài: 15/9/2016. Ngày nhận đăng: 20/3/2017
Liên hệ: Đỗ Thúy Mùi, e-mail: dothuymuitb@gmail.com
167
Đỗ Thúy Mùi
2.2. Các phương pháp nghiên cứu
Bài viết vận dụng quan điểm lịch sử, quan điểm hệ thống. Quan điểm lịch sử nhìn nhận sự
phát triển của ngành nông nghiệp qua các thời kì khác nhau, trên cơ sở đó có những giải pháp phù
hợp trong từng thời kì khác nhau. Quan điểm hệ thống đánh giá sự phát triển ngành nông nghiệp
trong bối cảnh chung với khu vực và với cả nước. Các giải pháp đề xuất cũng phải phù hợp với
khu vực và trong nước, không thể tách Sơn La trong các mối quan hệ thống nhất đó. Các phương
pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương
pháp nghiên cứu thực địa, phương pháp tham vấn cộng đồng, tham khảo các ý kiến của bà con
nông dân, các nhà quản lí nhà nước trong ngành nông nghiệp. Bài báo tổng hợp phân tích các báo
cáo của tỉnh, các số liệu trong thống kê của tỉnh để nhìn nhận, đánh giá chính xác thực trạng phát
triển. Ngoài ra, tác giả đi thực địa, quan sát thực tiễn, tìm hiểu cách thức sản xuất, tham vấn các
già làng, trưởng bản, hỏi ý kiến của người dân địa phương để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
gắn với thực tiễn.
2.3. Những thuận lợi để phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La
Sơn La có diện tích tự nhiên là 14.055 km2, bao gồm 11 huyện và 1 thành phố [2]. Là tỉnh
cửa ngõ của miền Tây Bắc, thuận lợi để cho giao lưu, trao đổi hàng hóa. Sơn La còn có các cao
nguyên rộng lớn, khá bằng phẳng như cao nguyên Mộc Châu, cao nguyên Nà Sản, rất thuận lợi
cho việc hình thành các vùng nông sản hàng hóa.
Cao nguyên Mộc Châu có độ cao trung bình 1050 mét, địa hình bề mặt khá bằng phẳng,
đất tốt, khí hậu mát mẻ, thuận lợi cho việc chuyên canh cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi bò
sữa, trồng hoa quả xứ ôn đới. Cao nguyên Nà Sản có độ cao trung bình là 800 mét, chạy dọc theo
quốc lộ 6, đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực
(nhất là ngô) và phát triển chăn nuôi đại gia súc [5].
Xen giữa vùng đồi núi, cao nguyên là các thung lũng, các đồng bằng nhỏ hẹp. Tuy diện tích
không lớn, nhưng có ý nghĩa trong việc phát triển cây lương thực, cây công nghiệp và rau đậu các
loại.
Đất ở Sơn La nhìn chung tốt, màu mỡ, chủ yếu là đất feralit hình thành trên đá vôi, rất thuận
lợi cho phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp và ngô, sắn. Nguồn nước của tỉnh khá phong phú,
lượng mưa tương đối lớn. Sơn La có hai hồ thủy điện lớn và nhiều hồ thủy lợi, thủy điện nhỏ, đây
là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung [5].
Sơn La trong những năm gần đây, đã và đang được bổ sung thêm một lực lượng lao động
lớn. Trình độ lao động không ngừng được nâng lên, là điều kiện để ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất.
Các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật đã và đang được hoàn thiện. Hệ thống
đường giao thông nông thôn đã được đầu tư xây dựng, góp phần nối liền nơi sản xuất với nơi chế
biến, tiêu thụ. Đặc biệt, Sơn La có tuyến đường huyết mạch là quốc lộ 6 đã được đầu tư nâng cấp,
mở rộng, là điều kiện thuận lợi để chuyên chở hàng hóa nông sản về các thị trường miền xuôi.
Một số cơ sở chế biến nông sản ở Sơn La đã được hình thành và đang được đầu tư hoàn
thiện như các cơ sở chế biến chè, sữa, bia, đường, thức ăn gia súc,. . . tuy chưa có công suất lớn,
nhưng góp phần đáng kể, thúc đẩy nông nghiệp Sơn La phát triển mạnh mẽ hơn [4].
168
Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La
Nhiều sản phẩm nông sản ở Sơn La đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường như
chè, sữa, hoa quả, ngô, các loại rau quả đặc sản. . . đây là điều kiện để mở rộng sản xuất. Nhiều
chính sách mới về nông nghiệp cũng đã được tỉnh ban hành như chính sách hỗ trợ vốn, chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. . . Đây là cơ sở quan trọng để
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Sơn La.
2.4. Những khó khăn
Sơn La có địa hình chủ yếu là núi và cao nguyên, địa hình dốc, đất đai dễ bị xói mòn, rửa
trôi, khó khăn cho sản xuất. Diện tích đất còn manh mún, khó khăn cho việc hình thành các vùng
chuyên canh có quy mô lớn. Đất canh tác nhiều năm cùng với tập quán canh tác lạc hậu nên nhiều
khu vực đất đai đã bị bạc màu, thoái hóa. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu nên có nhiều diễn biến thất thường gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Những hiện
tượng như sương muối, mưa đá, rét đậm, rét hại kéo dài, khô hạn. . . đã ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất nông nghiệp [5].
Nguồn lao động của tỉnh trong ngành nông nghiệp phần lớn chưa qua đào tạo, chất lượng
lao động chưa cao, đây là những khó khăn rất lớn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ mới
trong sản xuất nông nghiệp. Các cơ sở chế biến phần lớn với quy mô nhỏ, công cụ thủ công, sản
phẩm chưa mang tính hàng hóa cao nên giá trị sản xuất còn thấp. Hệ thống đường giao thông còn
khó khăn, nhiều sản phẩm nông sản chưa gắn được nơi trồng với nơi chế biến, tiêu thụ. Chưa có sự
liên kết giữa người nông dân với các doanh nghiệp, các nhà quản lí, nên tính bấp bênh của các loại
nông sản lớn. Đặc biệt, tư duy sản xuất của người nông dân vẫn nặng về phong trào, về giá trị kinh
tế trước mắt nên thường đua nhau sản xuất dẫn đến hàng hóa ế thừa, nhiều sản phẩm chất lượng
không cao do sử dụng nhiều chất kích thích, chất bảo quản. . . Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông
nghiệp còn ít, ngành nông nghiệp vẫn phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên nên hiệu quả kinh tế còn
thấp. Ngoài ra, sự biến động của thị trường trong nước và thế giới cũng ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất nông nghiệp của cả nước nói chung và của tỉnh Sơn La nói riêng [4].
2.5. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Sơn La
2.5.1. Khái quát chung
Từ những điều kiện thuận lợi, khó khăn trên, ngành nông nghiệp Sơn La đã có những kết
quả nhất định. Giá trị sản xuất của ngành tăng nhanh.
Bảng 1. Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tỉnh Sơn La
giai đoạn 2000 - 2015 (theo giá thực tế), (Đơn vị: tỉ đồng)
Năm 2000 2005 2010 2012 2015
Nông nghiệp 1073,4 2178,3 7169,0 11221,0 12425,6
Lâm nghiệp 322,1 410,1 986,4 962,0 885,7
Ngư nghiệp 32,1 79,3 245,4 279,0 286,9
Tổng 1.427,6 2.667,7 8.400,8 12.462,1 13598,2
(Nguồn: [1-2])
Cơ cấu của ngành nông, lâm, ngư nghiệp có sự chuyển dịch đáng kể. Tuy nhiên, sự chuyển
dịch khác so với cả nước. Tỉ trọng ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) có xu hướng tăng,
tỉ trọng ngành lâm nghiệp giảm nhanh, ngành ngư nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ, giao động trong
169
Đỗ Thúy Mùi
khoảng 2 đến 3%.
Sở dĩ cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh có sự chuyển dịch khác so với cả nước vì Sơn La
có nhiều lợi thể trong phát triển cây công nghiệp, cây lương thực, cây ăn quả và các vùng rau màu
chất lượng cao. Diện tích rừng có xu hướng giảm nhanh do phá rừng trồng cây cao su, cây ăn quả
và ngô. Thủy sản có tỉ trọng nhỏ do phần lớn diện tích của tỉnh là đồi núi, không thuận lợi để nuôi
trồng, đánh bắt thủy sản.
Bảng 2. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông, lâm, thủy sản
tỉnh Sơn La, giai đoạn 2000 - 2015
Năm 2000 2005 2010 2012 2015
Nông nghiệp 75,2 81,6 85,3 89,9 90,1
Lâm nghiệp 22,6 15,4 11,7 7,8 6,5
Ngư nghiệp 2,2 3,0 2,9 2,3 2,1
Tổng 100 100 100 100 100
(Nguồn tính toán dựa trên [1-2]
2.5.2. Sự phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Sơn La
Diện tích cây trồng tăng khá nhanh, trong vòng 10 năm, tổng diện tích cây trồng tăng gấp
hơn hai lần. Cây lương thực tăng nhanh nhất, tăng gấp gần 2,4 lần. Cây lương thực tăng nhanh
do tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi như diện tích rộng lớn, đất tốt, khí hậu thuận lợi cho sự sinh
trưởng và phát triển của cây ngô.
Bảng 3. Diện tích một số loại cây trồng giai đoạn 2000 - 2015
Năm 2000 2005 2010 2015
Cây lương thực 93,2 194,8 177,3 219,2
Cây công nghiệp 22,3 25,7 27,7 38,4
Cây ăn quả 18,7 25,2 22,5 17,7
Rau đậu và cây trồng khác 25,4 29,9 38,2 55,2
Tổng 159,6 275,6 265,7 330,5
(Nguồn: [5], Đơn vị: Nghìn ha)
Ngành chăn nuôi ở Sơn La có bước phát triển đáng kể. Giá trị ngành chăn nuôi tăng khá
nhanh. Năm 2012 tăng gấp 15,8 lần so với năm 2000. Tỉ trọng ngành chăn nuôi tăng dần phù hợp
với xu thế chung của đất nước. Năm 2012, chăn nuôi của tỉnh chiếm 28,2% trong cơ cấu ngành
nông nghiệp, cao hơn so với cả nước (cả nước là 26,9%) [2].
Cơ cấu ngành chăn nuôi khá đa dạng bao gồm đại gia súc, tiểu gia súc và gia cầm. Nhìn
chung, đàn gia súc, gia cầm ở Sơn La phát triển khá ổn định.
Bảng 4. Số lượng đàn gia súc, gia cầm giai đoạn 2000 - 2015
Năm 2000 2005 2010 2015
Trâu 124,3 143,8 170,2 168,5
Bò 90,5 119,9 185,2 196,5
Lợn 399,3 476,0 442,2 535,3
Gia cầm 2841,9 2402,2 4890,3 5217,3
(Nguồn: [5], Đơn vị: Nghìn ha)
170
Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La
Đàn trâu, bò ở Sơn La phát triển khá nhanh, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Đặc biệt đàn
bò của tỉnh tăng nhanh, (chủ yếu là bò sữa) tăng gần 2,2 lần trong vòng 15 năm. Nguyên nhân do
sữa Mộc Châu đã khẳng định được chất lượng trên thị trường. Hiện nay các sản phẩm được chế
biến từ sữa cũng đa dạng hơn, nhiều sản phẩm mới như: sữa chua, sữa tươi, bánh sữa, bánh khảo
sữa. . . Đàn lợn tăng khá do đã đáp ứng được nguồn thức ăn và thị trường tiêu thụ khá ổn định. Đàn
gia cầm tăng nhanh, tăng 1,8 lần. Nguyên nhân chủ yếu do đã ứng dụng khoa học kĩ thuật trong
chăn nuôi, nguồn thức ăn đảm bảo, nhiều trang trại chăn nuôi gia cầm đã phát triển ở các huyện
trong tỉnh.
Ngành chăn nuôi ở Sơn La đang từng bước chuyển dần theo hướng đầu tư theo chiều sâu,
áp dụng khoa học kĩ thuật, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, chú trọng đến việc
phát triển các loại đặc sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các chương trình phát triển bò thịt chất
lượng cao, chương trình nạc hóa đàn lợn, chăn nuôi gia cầm thả vườn, chăn nuôi gia cầm trang trại
để chuyên môn hóa trứng, thịt, giống. . .
Hiện tại, tỉnh đang áp dụng khoa học kĩ thuật trong chăn nuôi. Việc cải tạo giống địa phương
cũng được chú trọng. Phương thức chăn nuôi cũng có nhiều đổi mới, từ chỗ chăn nuôi nhỏ lẻ theo
hộ gia đình đến chỗ chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp. Nhiều trang trại chăn nuôi mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài trâu, bò, lợn Sơn La còn chú trọng phát triển chăn nuôi dê, ngựa,
nhím. Ngựa được nuôi chủ yếu ở những xã vùng cao, số lượng không nhiều. Năm 2012 toàn tỉnh
có 16,9 nghìn con. Dê là vật nuôi dễ tính, đàn dê của tỉnh có trên 135,7 nghìn con. Dê được nuôi
chủ yếu ở huyện Thuận Châu (22,4 nghìn con), Mai Sơn (20,5 nghìn con ). Hiện nay, nhiều hộ gia
đình, nhiều trang trại đã đầu tư để phát triển nuôi dê do vốn đầu tư ít, hiệu quả kinh tế cao và thị
trường tiêu thụ rộng lớn.
Bảng 5. Sản lượng thịt, trứng, sữa. . . ở Sơn La giai đoạn 2000 - 2015
Năm 2000 2010 2015
Thịt trâu (tấn) 1.718 3.570 4.378
Thịt bò (tấn) 3.008 3.819 4.651
Thịt lợn (tấn) 6.173 19.302 26.982
Thịt gà (tấn) 1.571 5.863 7.549
Trứng (triệu quả) 23,8 49,8 58,3
Sữa (nghìn lít) 2.516 19.945 35.400
(Nguồn: [5])
Sản lượng thịt tăng nhanh, nhất là thịt lợn (tăng gần 4,4 lần trong 15 năm). Nguyên nhân
chủ yếu do đảm bảo cơ sở thức ăn và chất lượng thịt đáp ứng nhu cầu ở nhiều địa phương lân cận.
Đàn gà, trứng gà tăng nhanh do phát triển các hình thức chăn nuôi trang trại. Tỉnh đã có
nhiều biện pháp phòng tránh trong phòng chống dịch bệnh.
Sản lượng sữa tăng 14 lần. Nguyên nhân chủ yếu do áp dụng các thành tựu công nghệ chế
biến, đồng thời sữa Mộc Châu đã khẳng định được chất lượng, thương hiệu trên thị trường.
Ngành thủy sản của tỉnh chiếm tỉ trọng không cao, nhưng liên tục phát triển. Năm 2015,
tốc độ tăng trưởng đạt 34,6%, năm 2016 đạt 9,6%. Giá trị thủy sản trên 1 ha mặt nước tăng nhanh.
Năm 2000 chỉ đạt 32,3 triệu đồng/ha [4]. Sở dĩ giá trị thủy sản/ha nuôi trồng tăng nhanh trong năm
2012 là do đây là năm đầu khai thác nguồn lợi hải sản ở hồ thủy điện Sơn La và hiện nay Sơn La
đã phát triển những vùng nuôi cá hồi, cá tầm và một số loại đặc sản nên giá trị kinh tế cao.
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng khá nhanh, năm 2000 cả tỉnh chỉ có 991 ha,
171
Đỗ Thúy Mùi
năm 2015 tăng gấp 3,0 lần đạt 2973 ha. Việc nuôi trồng thủy sản ở Sơn La chủ yếu là cá, diện tích
tôm chỉ chiếm 0,2 ha, nuôi các loại thủy sản khác như ba ba, ếch là 27 ha.
Ngành nuôi trồng thủy sản là hoạt động đóng vai trò chủ yếu. Năm 2015 chiếm 83,7% giá
trị sản xuất toàn tỉnh. Thủy sản được nuôi trong các ao hồ ruộng ngập nước của các hộ gia đình.
Hiện nay, đã phát triển mạnh nuôi cá lồng ở các hồ thủy điện kể cả các hồ thủy điện nhỏ và vừa.
Trên hồ thủy điện Sơn La và hồ thủy điện Hòa Bình phát triển mạnh nuôi cá lồng. Hiệu quả kinh
tế cao, nhiều giống cá có giá trị kinh tế cao được đưa vào nuôi như cá hồi, cá trê, cá quả, cá trắm
giòn. Một số huyện còn nuôi các loại đặc sản có giá trị cao như Sông Mã phát triển nuôi ba ba,
Mộc Châu, Mường La phát triên nuôi cá hồi, cá tầm [4].
2.5.3. Sự phân hóa lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Sơn La
Do điều kiện tự nhiên các huyện khác nhau, nên ngành nông nghiệp của tỉnh Sơn La có sự
phân hóa khá rõ nét giữa các huyện. Huyện Mộc Châu là huyện có giá trị sản xuất nông nghiệp
lớn nhất, sau đó đến Mai Sơn và Sông Mã. Các huyện này có diện tích đất rộng lớn, cơ cấu ngành
nông nghiệp khá đa dạng, có nhiều loại cây trồng và vật nuôi chủ lực. Đây cũng là ba huyện có
diện tích và sản lượng ngô dẫn đầu toàn tỉnh. Ba huyện có giá trị sản xuất nông nghiệp thấp nhất
là Sốp Cộp, Quỳnh Nhai và Bắc Yên. Đây là những huyện thuộc vùng cao của tỉnh Sơn La, điều
kiện tự nhiên không thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Đất nông nghiệp ít, chủ yếu là núi đá vôi.
Giao thông đến các huyện còn khó khăn, kinh tế nói chung còn chậm phát triển.
Bảng 6. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo huyện thị ở Sơn La
Năm 2006 2010 2014
Toàn tỉnh 100 100 100
TP. Sơn La 7,6 6,7 6,6
Quỳnh Nhai 4,3 3,2 2,9
Thuận Châu 10,1 9,4 9,4
Mường La 6,9 7,1 5,7
Bắc Yên 4,4 3,9 4,2
Phù Yên 11,4 9,7 8,5
Mộc Châu 18,6 22,9 17,5
Yên Châu 8,5 7,5 7,8
Mai Sơn 14,2 15,3 14,9
Sông Mã 10,9 11,4 13,1
Sốp Cộp 3,1 2,9 2,8
Vân Hồ - - 6,6
Tính toán dựa trên nguồn [1-2])
Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt cũng có sự phân hóa rõ nét. TP. Sơn La
đạt được giá trị cao nhất (Năm 2014 đạt 55,22 triệu đồng/ha); Mộc Châu đạt 39,84 triệu đồng/ha.
Huyện có giá trị thấp nhất là Quỳnh Nhai (17,44 triệu đồng/ha); Thuận Châu: 18,69 triệu đồng/ha.
Có sự phân hóa rõ nét về giá trị sản phẩm đó là do điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội,
đặc biệt là do trình độ của người lao động.
Ngành chăn nuôi tập trung ở một số huyện như Sông Mã, Mộc Châu, Phù Yên, Mai Sơn,
Thuận Châu. Đàn trâu tập trung chủ yếu ở huyện Sông Mã và Phù Yên. Hai huyện chiếm 22,6%
đàn trâu của cả tỉnh. Đàn bò tập trung chủ yếu ở huyện Sông Mã và Mộc Châu. Hai huyện chiếm
28,5% đàn trâu của cả tỉnh. Đàn lợn tập trung nhiều nhất ở Thuận Châu và Mai Sơn. Riêng huyện
172
Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La
Thuận Châu chiếm 15,9%, Mai Sơn 13,6%. Đàn gia cầm tập trung chủ yếu ở Mai Sơn và Mộc
Châu. Hai huyện chiếm trên 30% đàn gia cầm của tỉnh. Các huyện trên có ngành chăn nuôi phát
triển mạnh hơn chủ yếu do đáp ứng được nguồn thức ăn và nguồn vốn đầu tư. Các huyện khác
ngành chăn nuôi còn chậm phát triển chủ yếu do không đáp ứng được nguồn thức ăn, giao thông
đi lại khó khăn, dân cư còn nghèo chưa có vốn đầu tư để phát triển chăn nuôi, phần lớn chăn nuôi
nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp nên giá trị chưa cao.
Ngành nuôi trồng thủy sản không phải là thế mạnh của tỉnh. Sản lượng thủy sản tăng khá
nhanh. Năm 2010, sản lượng thủy sản đạt 5,25 ngàn tấn, năm 2014 đạt 6,54 ngàn tấn. Các huyện
có diện tích nuôi trồng thủy sản nhiều là Sông Mã, Thuận Châu, Quỳnh Nhai. Các huyện này có
diện tích nuôi trồng thủy sản nhiều là do có hồ thủy điện Sơn La và có hệ thống sông suối lớn.
Các huyện Bắc Yên, Sốp Cộp, Vân Hồ có diện tích nuôi trồng thủy sản nhỏ, chủ yếu tận dụng mặt
nước ở thung lũng. Sản lượng thủy sản thấp, chủ yếu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ.
Nhìn chung, ngành nông nghiệp ở Sơn La có sự phân hóa rõ nét về mặt lãnh thổ. Các huyện
có giá trị sản xuất nông nghiệp cao chủ yếu là các huyện có điều kiện tự nhiên thuận lợi, gần trục
giao thông, gần các trung tâm tiêu thụ sản phẩm. Các huyện kinh tế kém phát triển là những huyện
vùng cao, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, giao thông khó khăn.
2.6. Kiến nghị một số giải pháp phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La
Muốn phát triển nông nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao, cần tái cơ cấu ngành nông
nghiệp. Tái cơ cấu để bố trí, sắp xếp lại hệ thống ngành nông nghiệp cho phù hợp với từng huyện,
từng khu vực trong tỉnh, nhằm khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực để phát triển. Tái cơ cấu
nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, gắn với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
môi trường để đảm bảo phát triển bền vững. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Sơn La cũng nằm
trong xu thế chung đó.
Trên cơ sở điều kiện tự nhiên của tỉnh, mỗi huyện, mỗi khu vực có những điều kiện về đất
trồng, khí hậu khác nhau nên mỗi khu vực có các sản phẩm nông nghiệp khác nhau. Để khai thác
các thế mạnh của từng địa phương, đưa các sản phẩm nông nghiệp thành sản phẩm hàng hóa, cần
phải có các giải pháp lớn sau:
- Tái cơ cấu nông nghiệp cần phải bắt đầu dựa trên cơ sở rà soát lại cơ cấu cây trồng, vật
nuôi trên từng vùng sản xuất. Cần phải nghiên cứu cụ thể đặc điểm sinh thái của các loại cây trồng,
điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng để có thể phát triển cây trồng có hiệu quả hơn. Một số cây