Tóm tắt
Trước tình hình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại các trường đại học như hiện nay, bài viết tìm hiểu
thực trạng này tại Trường Đại học Sài Gòn với chủ thể xâm phạm quyền là sinh viên khối ngành sư
phạm. Việc phân tích thực trạng cho thấy có cả nguyên nhân khách quan từ phía nhà trường và xã hội,
lẫn nguyên nhân chủ quan từ phía sinh viên, như thiếu kiến thức và thiếu tôn trọng tài sản trí tuệ của
người khác. Từ đó, bài viết đề xuất các biện pháp quản lý nhằm kiểm soát, ngăn ngừa và hạn chế các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong trường đại học. Các biện pháp quản lý bao gồm: ban hành
quy định và thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý tài sản trí tuệ, trang bị các công cụ quản lý hữu
hiệu và nâng cao nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ cho sinh viên.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của sinh viên khối ngành Sư phạm trường Đại học Sài Gòn và một số kiến nghị về biện pháp quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015
27
Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của sinh viên
khối ngành Sư phạm Trường Đại học Sài Gòn
và một số kiến nghị về biện pháp quản lý
The real state of infringement of intellectual property by pedogical students of Sai
Gon University and some proposals on management
1ThS. Đào Vinh Xuân, 2CN. Trần Nguyễn Minh Nhựt
1Trường Đại học Sài Gòn, 2Trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM
1
M.A. Dao Vinh Xuan,
2
B.A. Tran Nguyen Minh Nhut
1
Sai Gon University,
2
Ho Chi Minh City College of Economics
Tóm tắt
Trước tình hình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại các trường đại học như hiện nay, bài viết tìm hiểu
thực trạng này tại Trường Đại học Sài Gòn với chủ thể xâm phạm quyền là sinh viên khối ngành sư
phạm. Việc phân tích thực trạng cho thấy có cả nguyên nhân khách quan từ phía nhà trường và xã hội,
lẫn nguyên nhân chủ quan từ phía sinh viên, như thiếu kiến thức và thiếu tôn trọng tài sản trí tuệ của
người khác. Từ đó, bài viết đề xuất các biện pháp quản lý nhằm kiểm soát, ngăn ngừa và hạn chế các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong trường đại học. Các biện pháp quản lý bao gồm: ban hành
quy định và thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý tài sản trí tuệ, trang bị các công cụ quản lý hữu
hiệu và nâng cao nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ cho sinh viên.
Từ khóa: quản lý tài sản trí tuệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sinh viên khối ngành sư phạm
Abstract
Facing recent infringement of intellectual property rights (IPRs) at universities, this article studies this
problem at Saigon University with the infringing object being the students in pedagogical fields.
Analysis of this problem reveals both objective reasons from the universities and society, and subjective
reasons from the students, including the lack of knowledge of and respect for others’ intellectual assets.
As a result, this article proposes management solutions for monitoring, preventing and reducing the
behaviors of infringing IPRs at universities. Such management solutions include: promulgating policies
and establishing bodies in charge of managing intellectual assets, equipping with effective management
tools, and raising students’ awareness of IPRs.
Keywords: intellectual asset management, infringement of intellectual property rights, students in
pedagogical fields
28
1. Đặt vấn đề
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ (SHTT) đã được quy định cụ thể trong
Luật SHTT Việt Nam [5], và trong đó, hành
vi liên quan mật thiết nhất đến môi trường
giáo dục là hành vi xâm phạm quyền tác
giả, quy định tại Điều 28 của Luật này.
Theo đó, khi thực hiện các hành vi này, tức
là đối tượng đang vi phạm pháp luật và có
thể bị xử lý theo các biện pháp dân sự, hành
chính và thậm chí là hình sự [5].
Ngoài ra, hành vi xâm phạm quyền
SHTT (ví dụ như đạo văn, sao chép sách,
giáo trình của người khác) cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến văn hóa nhà trường,
đặc biệt là trường đại học (ĐH) – nơi có
đặc thù sản sinh ra rất nhiều tài sản trí tuệ.
Do đó, việc quản lý các hành vi xâm phạm
quyền SHTT trong trường ĐH là rất quan
trọng. Đặc biệt, đối với các trường có đào
tạo ngành sư phạm như trường ĐH Sài
Gòn, việc sinh viên (SV) sư phạm thực
hiện các hành vi xâm phạm quyền SHTT
lại càng có ảnh hưởng nghiêm trọng, bởi
các SV này sẽ là người thầy tương lai, có
tác động đến nhiều thế hệ trẻ khác. Do đó,
việc quản lý và ngăn ngừa các hành vi này
đối với đối tượng là SV ngành sư phạm
càng cần được đặc biệt quan tâm.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập,
Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp ước, công
ước quốc tế liên quan đến SHTT [6]. Việc
tham gia này đòi hỏi công dân Việt Nam
phải hiểu và tuân thủ các nguyên tắc tôn
trọng quyền SHTT. Chính vì vậy, những
SV trong các trường ĐH, nguồn nhân lực
tương lai của đất nước, cũng cần được
trang bị những kiến thức về quyền SHTT
và những kinh nghiệm ứng xử đối với tài
sản trí tuệ của cá nhân và của người khác.
2. Nội dung
Phần này trình bày các khái niệm công
cụ gồm: tài sản trí tuệ, quyền SHTT, xâm
phạm quyền SHTT. Trên cơ sở lí luận đó,
nhóm nghiên cứu sẽ trình bày thực trạng
thực hiện hành vi xâm quyền của SV khối
ngành sư phạm trường ĐH Sài Gòn.
2.1. Một số vấn đề lý luận liên quan
2.1.1. Tài sản trí tuệ
Thông tư liên tịch của Bộ Khoa học &
Công nghệ và Bộ Tài chính định nghĩa tài
sản trí tuệ là “tài sản vô hình, có tính sáng
tạo, xác định được, kiểm soát được và có
khả năng mang lại lợi ích kinh tế cho chủ
sở hữu tài sản đó”. Tài sản trí tuệ có thể
bao gồm đối tượng được pháp luật SHTT
bảo hộ (như sáng chế, bí mật kinh doanh,
nhãn hiệu, tên thương mại) và đối tượng
không được bảo hộ (như sáng kiến, giống
vật nuôi, thiết kế kỹ thuật). [8]
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác
cũng đưa ra định nghĩa về tài sản trí tuệ
dựa trên cấu tạo, nguồn gốc phát sinh hoặc
sự hình thành của tài sản trí tuệ:
Dựa trên cấu tạo, tài sản trí tuệ bao
gồm “tất cả các sản phẩm của hoạt
động trí tuệ, do trí tuệ con người
tạo ra thông qua các hoạt động tư
duy, sáng tạo trong các lĩnh vực
công nghiệp, khoa học, văn học,
nghệ thuật” [1].
Dựa trên nguồn gốc phát sinh, tài
sản trí tuệ là “tất cả các sản phẩm
trí tuệ có thể được sở hữu hợp pháp
thông qua hoạt động tự sáng tạo,
mua lại, nhận chuyển giao hoặc
được biếu, tặng, trao đổi, bao gồm
các đối tượng SHTT, các quyền
SHTT đã xác lập và các tài sản trí
tuệ khác” [3].
Dựa trên sự hình thành, tài sản trí
tuệ là những nguồn vốn trí tuệ đã
được nhận diện, ghi nhận và sử
dụng trong tổ chức; trong đó, nguồn
29
vốn trí tuệ được hiểu là tất cả kiến
thức, kinh nghiệm của tất cả thành
viên của tổ chức [2].
Bài báo này sử dụng khái niệm của [8]
để làm cơ sở lý luận.
2.1.2. Quyền SHTT
Tổ chức SHTT Thế giới (WIPO) và
Luật SHTT Việt Nam đều dùng phương
pháp liệt kê để định nghĩa quyền SHTT, đó
là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài
sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và các
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền
sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống
cây trồng” [5].
Ngoài ra, tác giả Hồ Thúy Ngọc còn
xem xét thêm nghĩa chủ quan và khách
quan của quyền SHTT: “Theo nghĩa chủ
quan, quyền SHTT là khái niệm dùng để
chỉ quyền của chủ thể đối với tài sản trí
tuệ. Theo nghĩa khách quan, quyền SHTT
là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình sáng tạo, sử dụng, định
đoạt và bảo vệ tài sản trí tuệ” [1].
2.1.3. Xâm phạm quyền SHTT
Hành vi bị coi là xâm phạm quyền
SHTT là hành vi của cá nhân hay tổ chức
xâm phạm quyền tác giả và các quyền liên
quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp hoặc quyền đối với giống cây
trồng [1]. Các hành vi này đã được liệt kê
cụ thể trong Luật SHTT năm 2005. Cụ thể
là: hành vi xâm phạm các quyền tác giả tại
Điều 28; hành vi xâm phạm các quyền liên
quan tại Điều 35; hành vi xâm phạm quyền
đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
thiết kế bố trí tại Điều 126; hành vi xâm
phạm quyền đối với giống cây trồng Điều
188. Trong đó, chúng tôi chủ yếu quan tâm
đến các hành vi xâm phạm quyền tác giả và
quyền liên quan vì đây là 02 mảng quyền
phổ biến trong trường ĐH.
2.2. Thực trạng thực hiện hành vi
xâm phạm quyền SHTT
2.2.1. Mục đích điều tra
Nhằm làm rõ thực trạng xâm phạm
quyền SHTT của SV khối ngành sư phạm
Trường ĐH Sài Gòn trên 03 phương diện:
(i) các hành vi xâm phạm quyền SHTT mà
SV thường xuyên thực hiện, (ii) nguyên
nhân của việc thực hiện hành vi xâm phạm
và (iii) hậu quả của những hành vi này.
Trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp quản
lý nhằm hạn chế, ngăn ngừa các hành vi
xâm phạm quyền SHTT của SV.
2.2.2. Đối tượng khảo sát
Việc điều tra được tiến hành với SV
ngành sư phạm theo học 04 khoa: Giáo
dục, Sư phạm Khoa học Tự nhiên, Sư
phạm Khoa học Xã hội và Toán – Ứng
dụng thuộc Trường ĐH Sài Gòn.
2.2.3. Phương pháp điều tra
Hai phương pháp điều tra chính được
sử dụng là phương pháp điều tra bằng
phiếu hỏi dành cho 200 SV ngành sư phạm
Trường ĐH Sài Gòn và phương pháp
phỏng vấn sâu đối với 03 SV được chọn
ngẫu nhiên.
Công cụ điều tra gồm phiếu khảo sát
và câu hỏi phỏng vấn. Đặc biệt, trong
phiếu khảo sát, ở phần tìm hiểu các hành vi
xâm phạm quyền SHTT mà SV thường
xuyên thực hiện, nhóm nghiên cứu đã thiết
kế các đáp án dựa vào các hành vi xâm
phạm quyền SHTT được liệt kê tại các
Điều 28 và 35 của Luật SHTT hiện hành.
Tuy nhiên, để phù hợp với hiểu biết và
kinh nghiệm của SV, nhóm nghiên cứu đã
lựa chọn các hành vi có liên quan mật thiết
nhất đến SV và điều chỉnh cách diễn đạt
cho phù hợp. Chi tiết thể hiện trong bảng
2.1 sau đây:
30
Bảng 2.1. Các câu hỏi khảo sát và hành vi tương ứng được quy định trong Luật
SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009)
Hành vi được hỏi
trong phiếu khảo sát
Hành vi tương ứng
trong Luật SHTT
Sử dụng nội dung trong tác phẩm của người
khác mà không dẫn nguồn.
Mạo danh tác giả (Khoản 2 Điều 28)
Lấy tài liệu/ bài tập/ bài thu hoạch/ bài
thuyết trình/ giáo án của sinh viên này sao
chép cho sinh viên khác sử dụng, mà chưa
xin phép tác giả.
Công bố, phân phối tác phẩm mà không
được phép của tác giả (Khoản 3 Điều 28)
Lấy bài tập của nhóm đưa cho người khác
sử dụng mà chưa có sự đồng ý của tất cả
thành viên trong nhóm.
Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác
giả mà không được phép của đồng tác giả
đó (Khoản 4 Điều 28)
Mua sách gốc (giáo trình, tham khảo) và
photocopy thành nhiều bản cho lớp hoặc
nhóm sử dụng.
Sao chép tác phẩm mà không được phép
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
(Khoản 6 Điều 28)
Sửa đổi nội dung các bài thơ, bài hát, phát
biểu của người khác theo hướng tiêu cực,
làm sai lệch nội dung.
Làm tác phẩm phái sinh mà không được
phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
đối với tác phẩm được dùng để làm tác
phẩm phái sinh (Khoản 7 Điều 28)
Kinh doanh các sản phẩm (móc khóa, viết,
tập) có logo trường để thu lợi nhuận cho
cá nhân.
Sử dụng tác phẩm mà không được phép của
chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận
bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy
định của pháp luật (Khoản 8 Điều 28)
Lấy tài liệu/ bài tập/ bài thu hoạch/ bài
thuyết trình của cá nhân hoặc nhóm đăng
tải lên mạng internet hoặc gửi email cho
người khác mà chưa có sự đồng ý của tác
giả/ đồng tác giả.
Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối,
trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến
công chúng qua mạng truyền thông và các
phương tiện kỹ thuật số mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả (Khoản
10 Điều 28)
Sử dụng các phần mềm vi tính không có bản
quyền hay bẻ khóa bản quyền của các phần
mềm như Windows/ Microsoft Office/
WinRAR/ Proshow...
Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện
pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả
thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với
tác phẩm của mình (Khoản 12 Điều 28)
Ghi âm lời giảng của Thầy Cô hay chụp
hình slides bài giảng trong lớp mà chưa
nhận được sự đồng ý của giảng viên.
Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu
diễn đã được định hình, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng mà không
được phép của người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát
sóng (Khoản 3 Điều 35)
31
2.2.4. Kết quả điều tra
Nhóm nghiên cứu phân tích và trình
bày số liệu nhằm làm rõ 03 vấn đề sau:
Các hành vi xâm phạm quyền
SHTT của SV khối ngành sư phạm. Trong
đó, 02 khía cạnh chính được phân tích là:
mức độ thường xuyên thực hiện hành vi và
sự khác biệt giữa hành vi của SV đã học và
chưa học về quyền SHTT;
Nguyên nhân SV khối ngành sư phạm
thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT;
Hậu quả của hành vi xâm phạm
quyền SHTT đối với SV khối ngành sư phạm.
a) Các hành vi xâm phạm quyền
SHTT của SV khối ngành sư phạm
Nhìn chung, hầu hết các SV được
khảo sát đều đã từng thực hiện một hoặc
một số hành vi trên. Cá biệt có những SV
thường xuyên thực hiện hầu hết các hành
vi này.
Biểu đồ 2.1. Xếp hạng mức độ thường xuyên thực hiện các hành vi
xâm phạm quyền SHTT của 200 SV khối ngành sư phạm tham gia khảo sát
Căn cứ mức độ thường xuyên thực
hiện, các hành vi được xếp hạng từ 1 đến 9.
Theo đó, có thể phân loại 09 hành vi xâm
phạm này thành 03 nhóm xu hướng:
Nhóm hành vi phổ biến nhất (hạng
1 đến 4) là những hành vi gắn liền với hoạt
động học tập của SV, chẳng hạn: photo
sách (73,5%), sử dụng phần mềm không có
bản quyền (40%), ghi âm bài giảng của
thầy cô (29,5%), sử dụng tác phẩm mà
không dẫn nguồn (24,0%).
Nhóm hành vi khá phổ biến (hạng 5
đến 7) là những hành vi liên quan đến các
mối quan hệ giữa SV như: lấy tác phẩm
của SV này sao chép cho SV khác sử dụng
(24,0%); sử dụng bài tập nhóm mà chưa có
32
sự đồng ý của nhóm (18,0%); lấy tác phẩm
của người khác đăng tải lên mạng hoặc gửi
email mà chưa xin phép (18,0%).
Nhóm hành vi ít phổ biến (hạng 8
và 9) là những hành vi mang tính giải trí,
thương mại như: dùng logo trường để kinh
doanh cá nhân (14,5%); sửa đổi nội dung
tác phẩm của người khác theo hướng tiêu
cực (11,5%). Đặc biệt, hành vi dùng logo
trường để kinh doanh cá nhân có tỉ lệ lựa
chọn ở mức độ hiếm khi trở xuống rất cao
(83,5%). Điều này cho thấy do đặc thù
nghề nghiệp, SV khối ngành sư phạm rất ít
quan tâm đến việc kinh doanh.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu còn
tìm hiểu sự khác biệt giữa hành vi của SV
ngành Quản lý Giáo dục đã học và chưa
học về quyền SHTT (qua học phần “Quản
trị tài sản trí tuệ”). Do các ngành sư phạm
khác chưa có học phần liên quan nên nhóm
nghiên cứu chỉ chọn SV ngành Quản lý
Giáo dục để thực hiện so sánh này. Kết quả
(bảng 2.2) cho thấy: nhìn chung, SV chưa
học thực hiện hành vi xâm phạm quyền
SHTT ở mức độ khá thường xuyên trở lên
nhiều hơn so với SV đã học.
Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ, cụ thể:
Các hành vi mà SV đã học thực
hiện nhiều hơn SV chưa học: là những
hành vi thiên về việc “cung cấp phương
tiện” cho quá trình học tập như: mua sách
gốc và photo (57,9%); sử dụng phần mềm
không bản quyền (56,5%); sử dụng bài tập
nhóm mà chưa có sự đồng ý của nhóm
(37,5%). Sở dĩ SV vẫn xâm phạm dù đã
được học về quyền SHTT là do hạn chế về
điều kiện tài chính (không đủ khả năng
mua sách gốc, phần mềm có bản quyền).
Qua đó, có thể thấy việc xâm phạm quyền
SHTT không chỉ bị chi phối bởi nhận thức
mà còn bởi các điều kiện khách quan khác.
Các hành vi mà SV đã học thực
hiện ít hơn SV chưa học: là những hành vi
chủ yếu xuất phát từ nhận thức cá nhân và
không bị chi phối bởi yếu tố tài chính như:
sử dụng tác phẩm mà không dẫn nguồn
(37,5%); ghi âm bài giảng của thầy cô
(33,3%); lấy tác phẩm của SV này sao chép
cho SV khác sử dụng (30,0%); lấy tác
phẩm của người khác đăng tải lên mạng
hoặc gửi email mà chưa xin phép (40,0%).
Như vậy, việc được học về quyền SHTT đã
có ít nhiều tác động tích cực đến nhận thức
của SV.
Bảng 2.2. So sánh hành vi xâm phạm quyền SHTT ở mức độ khá thường xuyên trở lên
của SV ngành Quản lý Giáo dục đã học và chưa học học phần Quản trị tài sản trí tuệ
STT Hành vi xâm phạm quyền SHTT
Mức độ thực hiện
khá thường xuyên trở lên (SV)
SV chưa học SV đã học
TC Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
1
Mua sách gốc (giáo trình, tham khảo) và photocopy
thành nhiều bản cho lớp hoặc nhóm sử dụng
16 42,1 22 57,9 38
2
Sử dụng các phần mềm vi tính không có bản quyền
hay bẻ khóa bản quyền của các phần mềm như
Windows/ Microsoft Office/ WinRAR/ Proshow...
10 43,5 13 56,5 23
33
3
Sử dụng nội dung trong tác phẩm của người khác mà
không dẫn nguồn
10 62,5 6 37,5 16
4
Ghi âm lời giảng của Thầy Cô hay chụp hình slides bài
giảng trong lớp mà chưa nhận được sự đồng ý của
giảng viên
8 66,7 4 33,3 12
5
Lấy tài liệu/ bài tập/ bài thu hoạch/ bài thuyết trình/
giáo án của sinh viên này sao chép cho sinh viên
khác sử dụng, mà chưa xin phép tác giả
7 70 3 30 10
6
Lấy tài liệu/ bài tập/ bài thu hoạch/ bài thuyết trình
của cá nhân hoặc nhóm đăng tải lên mạng internet
hoặc gửi email cho người khác mà chưa có sự đồng ý
của tác giả/ đồng tác giả.
6 60 4 40 10
7
Lấy bài tập của nhóm đưa cho người khác sử dụng mà
chưa có sự đồng ý của tất cả thành viên trong nhóm
3 37,5 5 62,5 8
8
Sửa đổi nội dung các bài thơ, bài hát, phát biểu của
người khác theo hướng tiêu cực, làm sai lệch nội dung
5 100 0 0 5
9
Kinh doanh các sản phẩm (móc khóa, viết, tập) có
logo trường để thu lợi nhuận cho cá nhân
0 0 0 0 0
Tóm lại, hầu hết SV trong cuộc khảo
sát đều đã từng thực hiện các hành vi xâm
phạm quyền SHTT theo nhiều mức độ khác
nhau, trong đó, những hành vi gắn liền với
việc học tập của SV là những hành vi
thường xuyên được thực hiện nhất. Tuy
nhiên, có sự phân biệt khá rõ trong hành vi
của SV đã học và chưa học về quyền
SHTT, cho thấy tác dụng tích cực của việc
phổ biến kiến thức cho SV.
b) Nguyên nhân SV ngành sư phạm
thực hiện hành vi xâm phạm quyền
SHTT
Với 200 SV khối ngành sư phạm tham
gia khảo sát, nhóm nghiên cứu thu được
601 lượt lựa chọn nguyên nhân cho thực
trạng xâm phạm quyền SHTT. Trong đó,
03 nguyên nhân được lựa chọn nhiều nhất
là: nhà trường không có quy định cụ thể
(23,5%); SV chưa được phổ biến kiến thức
về quyền SHTT (22,5%); và SV cho rằng
đây là hành vi bình thường và phổ biến
trong xã hội (19,0%). Điều này cho thấy
ảnh hưởng lớn của nhà trường và xã hội
đối với nhận thức và ứng xử của SV.
Biểu đồ 2.2. Nguyên nhân của thực trạng
thực hiện hành vi xâm phạm quyền
SHTT của SV khối ngành sư phạm
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng ghi
nhận được các nguồn chủ yếu giúp SV thu
nhận được thông tin về quyền SHTT như
sau:
34
Bảng 2.3. Các nguồn cung cấp thông tin về quyền SHTT đến SV
Xếp hạng Nguồn cung cấp thông tin Số lượt lựa chọn (lượt) Tỉ lệ (%)
1 Truyền hình/ Tivi 114 27,1
2 Website 102 24,2
3 Trường lớp/ Cơ sở giáo dục 76 18,1
4 Báo/ Tạp chí 71 16,9
5 Sách chuyên ngành 30 7,1
6 Hội thảo/ Buổi báo cáo 28 6,7
Tổng 601 100
Bảng 2.3 cho thấy kênh thông tin chủ
yếu là truyền hình (27,1%) hay website
(24,2%). Trong khi đó, 18,1% SV cho biết
mình được tiếp cận thông tin tại cơ sở giáo
dục, và dưới 10,0% tìm hiểu qua sách
chuyên ngành hoặc hội thảo/ buổi báo cáo.
Cũng do hạn chế trong điều kiện tiếp
nhận thông tin về quyền SHTT nên đã có
13,0% lượt lựa chọn của SV cho rằng các
hành vi nêu trong biểu đồ 2.2 không bị
pháp luật nghiêm cấm. Điều này có nghĩa
là một bộ phận SV vẫn chưa hiểu biết về
Luật SHTT, từ đó, dẫn đến việc không
nhận thức được đó là hành vi không hợp
pháp. Ngoài ra, một bộ phận SV vẫn cho
rằng hậu quả về mặt vật chất (15,0%) và
tinh thần (7,0%) của hành vi xâm phạm
quyền SHTT là không đáng kể. Do đó, SV
vẫn thực hiện mà không quan tâm đến đối
tượng bị xâm phạm quyền.
Bên cạnh đó, trong phần phỏng vấn
sâu, nhóm nghiên cứu cũng nhận được một
số nguyên nhân như: SV không có đủ điều
kiện tài chính để mua sách hay phần mềm
có bản quyền và tâm lý ỷ lại, thờ ơ đối với
vấn đề này. Như vậy, bên cạnh một số
nguyên nhân khách quan thì cũng có những
nguyên nhân chủ quan từ bản thân SV.
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân dẫn
đến việc SV ngành sư phạm thực hiện các
hành vi xâm phạm quyền SHTT. Bên cạnh
các nguyên nhân chủ quan (như đánh giá
chưa đầy đủ về hậu quả của hành vi, tâm lý
thờ ơ, không chủ động tìm hiểu về quyền
SHTT) thì các nguyên nhân từ phía nhà
trường và xã hội cũng rất đáng lưu ý (bao
gồm sự thiếu quản lý, phổ biến kiến thức
của nhà trường; ứng xử chung của xã hội).
c) Hậu quả của hành vi xâm phạm
quyền SHTT đối với SV khối ngành
sư phạm
Nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát
về hậu quả của việc xâm phạm quyền
SHTT trên hai khía cạnh: hậu quả về mặt
vật chất và hậu quả v