Tóm tắt. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở
thành phố (TP) Hà Nội từ năm 2001 đến 2014 theo 2 giai đoạn là trước và sau khi mở rộng
địa giới hành chính. Số liệu trình bày trong nghiên cứu được tổng hợp từ các báo cáo của
Ủy ban Nhân dân TP Hà Nội và số liệu thống kê của Cục Thống kê TP Hà Nội. Phương
pháp chính được sử dụng là phương pháp thống kê kinh tế. Kết quả phân tích chỉ ra những
nguyên nhân dẫn đến ngành sản xuất rau của Hà Nội chuyển biến chậm và chưa đáp ứng
đủ nhu cầu của thị trường TP.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở thành phố Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0072
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 140-148
This paper is available online at
TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG SẢN XUẤT RAU Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Vũ Thị Mai Hương
Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt.Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở
thành phố (TP) Hà Nội từ năm 2001 đến 2014 theo 2 giai đoạn là trước và sau khi mở rộng
địa giới hành chính. Số liệu trình bày trong nghiên cứu được tổng hợp từ các báo cáo của
Ủy ban Nhân dân TP Hà Nội và số liệu thống kê của Cục Thống kê TP Hà Nội. Phương
pháp chính được sử dụng là phương pháp thống kê kinh tế. Kết quả phân tích chỉ ra những
nguyên nhân dẫn đến ngành sản xuất rau của Hà Nội chuyển biến chậm và chưa đáp ứng
đủ nhu cầu của thị trường TP.
Từ khóa: Thành phố Hà Nội, sản xuất rau, tiềm năng và thực trạng.
1. Mở đầu
Rau là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình. Với dân
số 7.26 triệu người và khoảng 3 triệu người lưu trú thường xuyên, nhu cầu tiêu thụ rau của TP Hà
Nội rất lớn, khoảng trên 1 triệu tấn/năm [1-6]. Trình độ dân trí và mức sống của người dân Hà Nội
khá cao nên yêu cầu rau phải đa dạng chủng loại và đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm
cũng rất cao. Tuy nhiên, sản lượng rau của TP chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu, trong đó rau an toàn
(RAT) mới đáp ứng được 20% [9].
Thực hiện bài nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn đánh giá đúng những thuận lợi và khó
khăn, những kết quả và hạn chế trong sản xuất rau ở Hà Nội; thông qua đó trả lời được câu hỏi tại
sao ngành này lại chưa đáp ứng đủ nhu cầu rau của TP.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tiềm năng để phát triển sản xuất rau ở thành phố Hà Nội
2.1.1. Vị trí địa lí
Với vị thế là thủ đô - trái tim của cả nước, ngành sản xuất rau của Hà Nội có ưu thế hơn hẳn
ngành sản xuất rau của các địa phương khác trong cả nước: vừa có thị trường tiêu thụ tại chỗ rộng
lớn; vừa được các ngành chức năng quan tâm, đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ vốn, tập huấn và chuyển
giao tiến bộ kĩ thuật.
Hà Nội lại có hệ thống giao thông đường bộ khá phát triển. Ngoài 7 tuyến quốc lộ đi qua
trung tâm và một số tuyến cao tốc hướng tâm, Hà Nội đã đầu tư xây mới hàng loạt các trục chính
Ngày nhận bài: 1/1/2016. Ngày nhận đăng: 5/5/2016
Liên hệ: Vũ Thị Mai Hương, e-mail: huongvmh@yahoo.com.
140
Tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở thành phố Hà Nội
trong lõi đô thị, các nút giao thông, các cây cầu vượt sông và các tuyến đường bộ trên cao. Các
tuyến tỉnh lộ quan trọng, các tuyến giao thông nông thôn cũng được nâng cấp, mở rộng. Đặc biệt,
việc xây dựng thêm các cây cầu vượt sông như cầu Thanh Trì (2/2007), Vĩnh Tuy (9/2010), Phù
Đổng 2 (1/2012), Vĩnh Thịnh (6/2014), Đông Trù (10/2014), Nhật Tân (1/2015) sẽ giúp tiêu thụ
nhanh chóng, kịp thời rau xanh - là các mặt hàng chóng hỏng và khó vận chuyển xa.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
a. Đất
Hà Nội có quỹ đất khá đa dạng, được hình thành từ 7 nhóm đất với 21 loại đất khác nhau.
Trong đó, đáng chú ý là nhóm đất phù sa, rất màu mỡ và có diện tích lớn nhất (chiếm 36.13% diện
tích tự nhiên) [7], thích hợp phát triển nhiều chủng loại rau.
Hà Nội còn có diện tích đất sản xuất nông nghiệp tương đối lớn. Đặc biệt, sau khi mở rộng
địa giới hành chính, Hà Nội có diện tích đất sản xuất nông nghiệp lớn nhất vùng đồng bằng sông
Hồng. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển các vùng chuyên canh rau. Tuy nhiên,
diện tích đất sản xuất nông nghiệp (nhất là đất trồng cây hàng năm) bị thu hẹp khá nhanh do tốc
độ công nghiệp hóa và đô thị hóa cao.
Diện tích đất trồng cây hàng năm giảm 3946 ha trong thời kì 2001 - 2007 (564 ha/năm) và
giảm 6859 ha ở thời kì 2008 - 2014 (980 ha/năm). Song đáng mừng là trong các loại đất trồng cây
hàng năm, đất trồng cây hàng năm khác (gồm cả đất trồng rau) vẫn có xu hướng tăng diện tích
ở cả hai thời kì. Rau vốn là cây trồng ngắn ngày, có thể trồng nhiều vụ trong năm; có thể trồng
xen, gieo lẫn, trồng gối nhiều loại khác nhau nên ngành sản xuất rau của Hà Nội càng có điều kiện
thuận lợi để phát triển.
Bảng 1. Tình hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của TP Hà Nội [2]
Chỉ tiêu Tình hình sử dụng đất Biến động (+) tăng; (-) giảm
2001 2007 2008 2014 2007-2001 2014-2008
Đất sản xuất nông nghiệp (ha) 41323 37857 156646 150683 -3466 -5963
- Đất trồng cây hàng năm 39570 35624 141029 134170 -3946 -6859
Đất trồng lúa 34464 27966 120074 112793 -6498 -7281
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 88 176 642 624 +88 -18
Đất trồng cây hàng năm khác 5018 7482 20313 20753 +2464 +440
- Đất trồng cây lâu năm 1753 2233 15617 16513 +480 +1178
Đất sản xuất nông
nghiệp/người (m2) 140 116 246 207 -24 -39
b. Khí hậu
Khí hậu Hà Nội mang đặc thù của khí hậu nhiệt đới gió mùa [3]. Mùa đông lạnh rõ rệt so
với mùa hè, chênh lệch nhiệt độ lên tới 120C. Trung bình tháng lạnh nhất khoảng 150C. Đây là
điều kiện để phát triển cây rau vụ đông có giá trị kinh tế cao. Mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, nhiệt
độ trung bình 300C. Các loại rau nhiệt đới sinh trưởng rất thuận lợi.
Độ ẩm trung bình trên 80%, thích hợp cho nhiều loại rau phát triển. Lượng mưa trung bình
1700 - 1800mm, có khoảng 150 ngày mưa, đáp ứng được nhu cầu nước tưới cho rau. Tuy nhiên,
lượng mưa tập trung chủ yếu vào mùa hè, chiếm khoảng 76 - 78% lượng mưa cả năm. Lượng mưa
phân bố không đều sẽ gây khó khăn cho sản xuất rau: gây úng ngập vào mùa mưa, gây khô hạn
thiếu nước vào mùa khô.
c. Thủy văn
141
Vũ Thị Mai Hương
Hà Nội có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc với nhiều khúc sông lớn chảy qua như sông
Hồng, sông Đáy, sông Tích, sông Đà, sông Đuống. . . [8]. Các con sông này vừa vận chuyển phù sa
bồi đắp cho đồng ruộng, vừa là nguồn cung cấp nước chủ yếu để tưới cho rau. TP còn có hơn 40
hồ, đầm lớn nhỏ. Chúng có vai trò quan trọng trong việc chống úng, chống hạn cho cây trồng nói
chung và cây rau nói riêng. Hà Nội cũng có nguồn nước ngầm khá phong phú hiện đang được khai
thác để cung cấp nước tưới cho rau, đặc biệt các vùng rau cách xa các con sông lớn.
Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh đã làm cho nhiều dòng sông bị ô
nhiễm. Trong khu vực nội thành, bốn con sông tiêu thoát nước thải của thành phố (sông Tô Lịch,
Kim Ngưu, Lừ, Sét) đã bị ô nhiễm nặng. Ở ngoại thành, các con sông Nhuệ, sông Đáy, sông Bùi,
sông Tích, sông Cà Lồ, sông Cầu Bây... đều bị ô nhiễm, nặng nhất là sông Nhuệ [8]. Nước sông
bị ô nhiễm sẽ không đủ tiêu chuẩn để tưới cho rau, sẽ làm cho rau không đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm.
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động
Quy mô dân số đông, gia tăng dân số vẫn ở mức cao. Dân số của Hà Nội năm 2014 là
7265.6 nghìn người, xếp thứ hai cả nước sau TP Hồ Chí Minh. Tốc độ gia tăng dân số của Hà Nội
giai đoạn 2001 - 2007 là 3.0%/năm, giai đoạn 2008 - 2014 là 2.3%/năm [2]. Hà Nội hiện là địa
phương có tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao nhất vùng đồng bằng sông Hồng, đồng thời cũng là
địa bàn nhập cư lớn thứ hai cả nước sau TP Hồ Chí Minh. Dân số đông, tăng nhanh đòi hỏi nhu
cầu tiêu thụ rau ngày càng lớn.
Mức sống của dân cư ngày càng được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người của Hà Nội
thường chỉ đứng sau TP Hồ Chí Minh. Thu nhập bình quân đầu người năm 2012 là 35.3 triệu đồng,
tăng 2.3 lần so với năm 2008 (15.6 triệu đồng) và cao gấp 4.8 lần so với năm 2002 (7.4 triệu đồng)
[6]. Đời sống nhân dân được nâng cao nên yêu cầu về chủng loại rau sẽ phong phú và đa dạng, đủ
về số lượng, tốt về chất lượng.
Số lượng lao động nông nghiệp vẫn còn khá lớn (năm 2012 tỉ lệ lao động nông nghiệp còn
khoảng 48% lao động xã hội khu vực nông thôn) [3] song đã giảm đi đáng kể cả trước và sau khi
Hà Nội mở rộng. Đây là xu hướng tiến bộ và cũng là trở ngại lớn đối với sản xuất rau. Rau là cây
trồng đòi hỏi đầu tư nhiều công lao động nên ngành sản xuất rau sẽ đứng trước nguy cơ thiếu hụt
lao động, khó thuê lao động, giá thuê lao động cao. Tuy nhiên, lao động nông nghiệp của TP hiện
nay đa số là lao động trẻ, có trình độ văn hóa, có tri thức, tiếp thu nhanh tiến bộ kĩ thuật và công
nghệ mới nên rất thuận lợi để phát triển sản xuất rau, đặc biệt là những chủng loại rau cao cấp.
b. Tiềm lực khoa học - công nghệ
Hà Nội là nơi tập trung nhiều nhất các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu và các cán bộ khoa
học có bằng cấp cao nên có tiềm lực khoa học - công nghệ lớn mạnh nhất trong cả nước. Nguồn
lực chất xám này là một lợi thế to lớn của Hà Nội so với các địa phương khác trong quá trình hợp
tác, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai để đưa tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào sản xuất
nông nghiệp, trong đó có sản xuất rau.
c. Thị trường tiêu thụ
Kinh tế có bước tăng trưởng mạnh mẽ. Dân số đông thứ hai cả nước. Thu nhập thuộc vị trí
hàng đầu cả nước. Công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển mạnh nhất cả nước. Du lịch đứng
trong tốp hai TP thu hút lượng khách du lịch nhiều nhất cả nước. Chưa kể một số lượng không nhỏ
học sinh, sinh viên, người lao động từ các địa phương khác đang học tập, làm việc, sinh sống trên
địa bàn. Mà rau lại là loại thực phẩm không thể thiếu, không thể thay thế trong bữa ăn hàng ngày
142
Tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở thành phố Hà Nội
của mỗi gia đình. Vì vậy, thị trường vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với ngành trồng rau của
thủ đô.
d. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật
Trong những năm qua TP đã chú trọng đầu tư hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thủy
lợi, nhà lưới. . . cho nhiều vùng sản xuất rau, đặc biệt là sản xuất RAT.
Hà Nội đang là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về quy mô, chất lượng hệ
thống giao thông nông thôn. Trong 21471 km đường của thủ đô thì có tới 19563 km (chiếm 91%)
là đường kết nối và phục vụ giao thông nông thôn. Đến nay, 100% đường trục xã, liên xã, 95%
đường trục thôn, liên thôn đã được cứng hóa theo tiêu chuẩn kĩ thuật quốc gia; 91% đường ngõ
xóm được cứng hóa đáp ứng quy định không lầy lội về mùa mưa trở lên; 50% đường trục chính
nội đồng được cứng hóa bằng bê tông xi măng, cấp phối [5]. Ngoài ra, để việc khai thác, sử dụng
hệ thống hạ tầng giao thông nông thôn có hiệu quả, TP còn đẩy mạnh hoàn thành, đưa vào phục
vụ 7 cầu vượt kết cấu thép tại các nút giao lớn. Nhiều đoạn trên các tuyến quốc lộ, đường hướng
tâm như: quốc lộ 32, đường 1A, quốc lộ 5, vành đai 1 - 2 - 3 - 3,5 cùng 30 công trình phục vụ giao
thông trọng điểm khác được xây mới, nâng cấp. Người trồng rau có thể dễ dàng lưu thông từ khu
vực ngoại thành đến các vùng cửa ngõ, vào khu vực nội thành. Nhờ đó mà việc vận chuyển rau
xanh trở nên dễ dàng và tiết kiệm thời gian, chi phí gấp nhiều lần trước đây. Tuy vậy, hiện vẫn còn
một số vùng rau chưa được đầu tư xây dựng đường bê tông nội đồng cộng với một số bờ ruộng quá
nhỏ nên rất khó khăn cho việc đi lại, vận chuyển vật tư, sản phẩm rau thu hoạch.
Hà Nội hiện có 9 hệ thống giếng khoan công suất lớn (có thể đáp ứng tưới thường xuyên
cho 90 - 110 ha rau) và 21230 giếng khoan nhỏ (có khả năng tưới cho 3050 ha). Nhiều xã, đặc biệt
các xã có diện tích rau nằm gần các con sông lớn (sông Hồng, sông Cà Lồ, sông Đuống. . . ) đã đầu
tư hệ thống kênh mương để dẫn nước tưới cho rau. Tổng chiều dài kênh mương bê tông phục vụ
dẫn nước tưới rau ở các xã là 580 km; có khả năng cung cấp nước tưới cho 6325 ha đất sản xuất
rau [9]. Tuy nhiên, số lượng giếng khoan công suất lớn và công suất nhỏ còn ít, đồng thời nhiều
kênh mương bê tông đã xuống cấp nên không đáp ứng đủ nhu cầu tưới cho rau, đặc biệt là mùa
khô.
Hà Nội cũng xây dựng được 1150.2 ha nhà lưới và nhà màn che phủ nilon sử dụng cho sản
xuất RAT trái vụ [9]. Nhưng diện tích nhà lưới, nhà màn còn rất thấp và mới chỉ tập trung ở một
số xã, phường vùng chuyên canh rau (che phủ nilon 1025 ha: Đông Anh: 800 ha, Mê Linh: 100
ha, Thường Tín: 50 ha...; nhà lưới 125.2 ha: Gia Lâm: 38.5 ha, Hoàng Mai: 45 ha, Thường Tín:
38 ha...) nên chưa đáp ứng được nhu cầu của người sản xuất. Do vậy, khi gặp thời tiết nắng nóng,
mưa bão, chất lượng rau cũng như sản lượng rau (đặc biệt là rau ăn lá) dễ bị giảm sút và gây thất
thu cho người sản xuất.
Để nâng cao giá trị của cây rau, hoạt động chế biến cũng bước đầu được quan tâm. Đến nay,
toàn TP đã xây dựng được 8 cơ sở sơ chế RAT gắn với vùng sản xuất tập trung có công suất lớn từ
3 - 7 tấn/ngày tại các xã Văn Đức, Yên Mỹ, Duyên Hà, Thanh Đa, Tiền Lệ, Chúc Sơn, Đặng Xá,
Nam Hồng và 42 cơ sở sơ chế nhỏ của các hợp tác xã, doanh nghiệp với công suất trung bình từ
200 - 1000 kg/ngày [9].
Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân và giải quyết đầu ra cho sản xuất rau, hệ thống
bán buôn và bán lẻ rau xanh ở Hà Nội cũng khá phát triển. Tính đến năm 2014, trên địa bàn TP có
426 chợ (trong đó có 3 chợ đầu mối bán buôn rau), 19 trung tâm thương mại, 103 siêu thị (có 35
siêu thị đang tiêu thụ RAT) và 58 cửa hàng, điểm bán RAT [9]. Đây thực sự là cầu nối giữa người
sản xuất và người tiêu dùng, tạo đà phát triển cho ngành sản xuất rau ở Hà Nội. Song nhìn chung,
số lượng rau tiêu thụ qua kênh thương mại hiện đại còn chiếm tỉ lệ nhỏ.
143
Vũ Thị Mai Hương
2.2. Thực trạng sản xuất rau ở thành phố Hà Nội
Rau, đậu thực phẩm luôn được xác định là cây trồng mũi nhọn của nông nghiệp thủ đô.
Nhóm cây trồng này cho hiệu quả kinh tế cao thứ hai sau nhóm cây ăn quả. Trong đó, cây rau
chiếm ưu thế cả về giá trị và diện tích so với cây đậu đỗ. Diện tích rau của Hà Nội hiện đứng thứ 8
cả nước và đứng thứ 2 ở vùng đồng bằng sông Hồng.
2.2.1. Cây rau
Sản xuất rau có nhiều biến động. Từ năm 2001 đến 2004, diện tích rau có xu hướng tăng do
người dân lựa chọn cây rau để thay thế một số cây trồng truyền thống có giá trị thấp và mở rộng
diện tích rau vụ đông xen giữa hai vụ lúa. Từ năm 2005 đến 2007, diện tích rau giảm rõ rệt. Đô
thị hóa diễn ra nhanh làm tăng giá đất và tạo nhiều việc làm cho thu nhập cao nên nhiều nông dân
không còn mặn mà với nghề trồng rau.
Bảng 2. Diện tích, năng suất, sản lượng rau giai đoạn 2001 - 2014 [1]
Năm Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
2001 7484 189.0 141422
2003 8607 176.6 151997
2005 8125 185.3 150587
2007 7989 195.8 156421
2008 28539 171.6 489712
2010 27256 192.4 524416
2012 28500 193.0 550148
2014 29407 200.0 588140
Giai đoạn 2008 - 2014, diện tích và sản lượng rau có xu hướng tăng. Nhờ mở rộng địa giới
hành chính, Hà Nội có diện tích đất đai rộng lớn, trù phú, thích hợp cho canh tác rau. Cơ sở hạ
tầng đường xá ngày càng được cải thiện giúp vận chuyển sản phẩm nhanh hơn, dễ dàng hơn với
chi phí thấp hơn nên diện tích canh tác rau không chỉ tập trung ở các huyện ven đô mà đã mở rộng
ra nhiều huyện xa đô.
Với diện tích rau như trên Hà Nội chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu, lượng rau còn
lại được cung cấp từ các địa phương khác như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương... Sản
phẩm rau sau thu hoạch chủ yếu tiêu thụ ở dạng rau tươi.
Sản xuất rau ở Hà Nội diễn ra quanh năm với đủ các loại rau của bốn mùa. Tuy nhiên, rau
vẫn được sản xuất theo hai vụ chính: vụ đông xuân và vụ mùa.
Bảng 3. Diện tích, năng suất, sản lượng rau
theo mùa vụ giai đoạn 2001 - 2012 [1]
Năm Vụ đông xuân Vụ mùa
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
2001 5482 166.1 91049 2002 251.6 50373
2003 6321 160.5 101476 2286 221.0 50521
2005 5713 178.0 101689 2412 202.7 48898
2007 5402 183.7 99213 2587 221.1 57208
2008 21616 167.5 362040 6923 184.4 127672
2010 20581 179.9 370295 6675 230.9 154121
2012 21300 186.9 398100 7200 211.2 152048
144
Tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở thành phố Hà Nội
Vụ đông xuân (bắt đầu từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau) là vụ rau chính, cho diện
tích và sản lượng rau cao (chiếm khoảng 2/3 diện tích và sản lượng rau cả năm). Chủng loại rau rất
phong phú. Vụ đông xuân có ưu thế rất lớn là thời tiết phù hợp với nhiều loại rau nên không cần
áp dụng các biện pháp che đậy, kích thích quá khắt khe nhưng rau vẫn cho năng suất cao. Vụ này
cũng ít sâu bệnh hơn vụ mùa.
Vụ mùa (từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm) cả diện tích, sản lượng và chủng loại rau đều
giảm. Rau vụ mùa chiếm tỉ trọng thấp là do khó khăn của điều kiện thời tiết (nắng to và mưa to)
nên khó sản xuất; do hạn chế về đất đai (diện tích chuyên rau ngoài bãi bị ngập lụt) không thể
tiến hành sản xuất. Ngoài ra còn do nguyên nhân thiếu các giống rau thích hợp với điều kiện mùa
hè. Tuy nhiên, do áp dụng phổ biến biện pháp che phủ nilon và do có nền nhiệt độ cao, cây rau
sinh trưởng và phát triển nhanh, cho nhiều lứa, nên năng suất rau vụ mùa vẫn cao hơn rau vụ đông
xuân. Đặc biệt là nhờ có kĩ thuật che phủ nilon (giúp cây hạn chế ánh sáng, mưa; giảm lượng nước
tưới, sâu bệnh. . . ), những năm gần đây một số vùng ngoại thành Hà Nội đã trồng thành công nhiều
loại rau trái vụ (rau cải, su hào. . . ).
Do đặc thù sản xuất rau mang tính thời vụ, không đồng đều nên ở một số thời điểm bị dư
thừa rau (vụ đông xuân), gây khó khăn cho tiêu thụ, một số thời điểm lại thiếu hụt rau (vụ mùa)
phải nhập từ các tỉnh khác hoặc nhập từ Trung Quốc.
Cơ cấu chủng loại rau của Hà Nội khá phong phú (trên 40 loại), tập trung chủ yếu ở vụ
đông xuân. Các loại rau được trồng phổ biến gồm cải các loại, rau muống, cải bắp, su hào, cà
chua, khoai tây, đậu rau các loại, bí đỏ, bí xanh. Nhiều giống mới của Mỹ, Pháp, Đức, Nhật Bản,
Xingapo, Thái Lan... đã được đưa vào gieo trồng.
Rau phân bố ở tất cả các quận ven và các huyện ngoại thành vì cho thu nhập cao hơn, có
nhu cầu lớn hơn và dễ trồng hơn các cây hàng năm khác. Song diện tích tập trung chủ yếu ở các
huyện ngoại thành. Thời điểm trước mở rộng, 4 huyện có diện tích rau lớn là Đông Anh, Thanh Trì,
Gia Lâm, Sóc Sơn. Sau mở rộng, 11 huyện có diện tích rau nhiều là Mê Linh, Đông Anh, Thường
Tín, Chương Mỹ, Hoài Đức, Ba Vì, Gia Lâm, Thanh Trì, Sóc Sơn, Phúc Thọ, Thanh Oai. Lợi thế
cơ bản của các huyện trên là có chợ đầu mối hoặc gần chợ đầu mối, có các trục giao thông chính
cửa ngõ vào thủ đô và có diện tích đất bãi khá lớn. Tuy diện tích không lớn như các huyện ngoại
thành nhưng rau gần như là cây chủ lực của các quận nội thành. Với lợi thế về thị trường, hiện một
số quận (Hoàng Mai, Long Biên) cùng một số huyện ven đô (Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì) đã
hướng mạnh vào sản xuất các loại rau cao cấp.
2.2.2. Cây rau an toàn
Bảng 4. Diện tích, năng suất, sản lượng RAT giai đoạn 2001 - 2014 [1]
Năm Diện tíchRAT (ha)
% tổng diện
tích rau
Năng suất
RAT (tạ/ha)
% năng
suất rau
Sản lượng
RAT (tấn)
% tổng sản
lượng rau
2001 735 9.8 160.2 84.8 11777 8.3
2003 981 11.4 167.3 94.7 16414 10.8
2005 1996 24.6 147.0 79.4 29350 19.5
2007 1930 24.2 196.0 100.1 37834 24.2
2008 6820 23.9 184.3 107.4 125720 25.7
2010 8762 32.1 191.4 99.5 167742 32.0
2012 11400 40.0 195.0 101.0 222345 40.4
2014 12278 41.7 198.0 99.0 243104 41.3
145
Vũ Thị Mai Hương
Do yêu cầu của thị trường thủ đô về các sản phẩm có chất lượng và vệ sinh an toàn cao nên
Hà Nội chú trọng phát triển RAT từ rất sớm (bắt đầu vào năm 1996).
RAT có xu hướng tăng cả về diện tích, năng suất, sản lượng và ngày càng chiếm tỉ trọng
cao trong tổng diện tích và sản lượng rau của TP. Song so với nhu cầu, tỉ lệ RAT còn khá khiêm
tốn, mới đáp ứng được 20% nhu cầu của người tiêu dùng thủ đô.
Diện tích RAT tăng chậm do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất là, vùng sản xuất RAT còn manh mún, nhỏ lẻ vừa gây khó khăn cho việc chuyển
giao tiến bộ kĩ thuật, cho công tác quản lí, chỉ đạo, giám sát; vừa dẫn đến tốn nhiều công lao động;
nguồn hàng cung ứng phân tán, thiếu ổn định; chi phí cấp giấy chứng nhận lớn; ý thức của người
nông dân chưa được nâng cao.
Thứ hai là, mạng lưới tiêu thụ RAT còn quá "mỏng” so với nhu cầu. Các siêu thị, cửa hàng
kinh doanh RAT phát triển chậm do giá thành thuê mặt bằng quá cao, không thuận tiện mua bán,
sản lượng bán ra chậm, lợi nhuận thấp. Các doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia cung ứng RAT quá
ít vì mua bán dưới hình thức kí gửi, rủi ro lớn, lợi nhuận không cao, sản phẩm đòi hỏi phải được
tiêu thụ luân chuyển nhanh để bảo đảm chất lượng cũng như lợi nhuận, khó cạnh tr