Trong quá trình hơn 70 năm, chính sách tiền lương tối thiểu ở Việt Nam đã dần
dần phát triển nhằm tạo ra “lưới an toàn” bảo vệ người lao động, đồng thời cũng
là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Bài viết trình bày
lịch sử tiền lương tối thiểu ở Việt Nam và phân tích thực trạng áp dụng mức
lương tối thiếu mới cho lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong nước có
phân biệt theo vùng. Nhiều khảo sát cho thấy, lương tối thiểu vùng tăng có tác
động đa chiều đến doanh nghiệp và người lao động: Đối với doanh nghiệp, tác
động rõ nhất là tăng chi phí nhân công do các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế và bảo hiểm thất nghiệp tăng. Doanh nghiệp có xu hướng điều chỉnh cấu
trúc để giảm chi phí tiền lương và các chi phí liên quan khác, trong đó có khả
năng nâng cao năng suất lao động và giảm nhu cầu lao động. Đối với người lao
động, mức thu nhập trung bình chỉ mới đáp ứng các khoản chi tiêu cơ bản nhất
và không có tiết kiệm hoặc dự phòng rủi ro do giá cả cũng tăng tương ứng với
tăng lương. Chính vì thế, tăng lương tối thiểu vùng cho đến nay còn tiềm ẩn
nhiều tác động không mong muốn.
15 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiền lương tối thiểu ở Việt Nam: Một số quan sát và phân tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019
57
TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM:
MỘT SỐ QUAN SÁT VÀ PHÂN TÍCH
NGUYỄN ĐẶNG MINH THẢO*
Trong quá trình hơn 70 năm, chính sách tiền lương tối thiểu ở Việt Nam đã dần
dần phát triển nhằm tạo ra “lưới an toàn” bảo vệ người lao động, đồng thời cũng
là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Bài viết trình bày
lịch sử tiền lương tối thiểu ở Việt Nam và phân tích thực trạng áp dụng mức
lương tối thiếu mới cho lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong nước có
phân biệt theo vùng. Nhiều khảo sát cho thấy, lương tối thiểu vùng tăng có tác
động đa chiều đến doanh nghiệp và người lao động: Đối với doanh nghiệp, tác
động rõ nhất là tăng chi phí nhân công do các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế và bảo hiểm thất nghiệp tăng. Doanh nghiệp có xu hướng điều chỉnh cấu
trúc để giảm chi phí tiền lương và các chi phí liên quan khác, trong đó có khả
năng nâng cao năng suất lao động và giảm nhu cầu lao động. Đối với người lao
động, mức thu nhập trung bình chỉ mới đáp ứng các khoản chi tiêu cơ bản nhất
và không có tiết kiệm hoặc dự phòng rủi ro do giá cả cũng tăng tương ứng với
tăng lương. Chính vì thế, tăng lương tối thiểu vùng cho đến nay còn tiềm ẩn
nhiều tác động không mong muốn.
Từ khóa: lƣơng tối thiểu vùng, ngƣời lao động, doanh nghiệp, chi tiêu, tiết kiệm
Nhận bài ngày: 3/8/2019; đưa vào biên tập: 6/8/2019; phản biện: 15/9/2019; duyệt
đăng: 5/10/2019
1. GIỚI THIỆU
Khái niệm “lƣơng tối thiểu” ở Việt
Nam đƣợc đề cập lần đầu trong Sắc
lệnh số 29-SL, ngày 12/3/1947, và kể
từ năm 1947 đến nay với rất nhiều lần
điều chỉnh, chủ yếu nhằm đảm bảo
mức sống tối thiểu cho ngƣời lao
động (NLĐ) và gia đình họ, đã tác
động mạnh mẽ đến công tác quản lý
nhà nƣớc, đến ngƣời sử dụng lao
động (NSDLĐ), và đặc biệt đến NLĐ.
Lƣơng tối thiểu là mức lƣơng thấp
nhất đƣợc trả theo giờ, theo ngày
hoặc theo tháng mà NSDLĐ phải trả
cho NLĐ. Mục đích chính của lƣơng
tối thiểu là bảo vệ NLĐ có mức thu
nhập thấp. Song song đó, lƣơng tối
thiểu còn có tác dụng gia tăng động
lực và năng suất lao động, giảm số
ngƣời hƣởng trợ cấp, thúc đẩy tiêu
dùng và tổng cầu, và tạo ra hiệu ứng
lan tỏa (Freeman, 1995; Dowrick và
Quiggin, 2003; Gunderson, 2005 - dẫn
theo Nguyễn Việt Cƣờng, 2009: 1).
Ở Việt Nam, Bộ luật Lao động năm
1994 quy định: “Mức lƣơng tối thiểu là
mức thấp nhất trả cho NLĐ làm việc
*
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
NGUYỄN ĐẶNG MINH THẢO – TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM
58
giản đơn nhất, trong điều kiện lao
động bình thƣờng và phải bảo đảm
nhu cầu tối thiểu của ngƣời lao động
và gia đình họ”. Căn cứ vào nhu cầu
tối thiểu của NLĐ và gia đình họ, điều
kiện kinh tế - xã hội và mức lƣơng
trên thị trƣờng lao động, Chính phủ sẽ
quyết định các mức lƣơng tối thiểu
vùng theo sự tƣ vấn của Hội đồng
Tiền lƣơng Quốc gia. Vậy kể từ đó
đến nay, có những thay đổi nào về
chính sách tăng lƣơng tối thiểu và có
tác động ra sao đối với các bên liên
quan. Bài viết góp phần trả lời câu hỏi
trên bằng một phân tích các giai đoạn
thay đổi lƣơng tối thiểu và bình luận
các vấn đề liên quan khi áp dụng
lƣơng tối thiểu cho NLĐ ở các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay.
Dữ liệu sử dụng trong bài viết đƣợc
tích hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác
nhau: (i) dữ liệu phỏng vấn định tính
của dự án: “Nghiên cứu quan niệm,
chính sách và thực hành đạo đức kinh
doanh ngành dệt may” do Oxfam tài
trợ, thực hiện năm 2019; (ii) các
nguồn dữ liệu thứ cấp khác về vấn đề
tăng lƣơng tối thiểu liên quan đến
doanh nghiệp và NLĐ.
2. LỊCH SỬ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
Ở VIỆT NAM
Giai đoạn 1945 - 1960
Ở Việt Nam, khái niệm “tiền công tối
thiểu” đƣợc đề cập lần đầu trong Sắc
lệnh số 29-SL quy định chế độ lao
động vào ngày 12/3/1947. Sắc lệnh đã
định nghĩa “tiền công tối thiểu” cũng
có các tính chất, đặc trƣng nhƣ “tiền
lƣơng tối thiểu” theo quan niệm hiện
nay là “Tiền công tối thiểu là số tiền
công do Chính phủ ấn định theo giá
sinh hoạt để một công nhân không
chuyên nghiệp sinh sống một mình
trong một ngày ở một khu vực nhất
định”, nhằm xác định lƣơng cho các
hạng công nhân. Sắc lệnh số 188-SL
ngày 29/5/1948 quy định về việc lập
một chế độ công chức mới và một
thang lƣơng chung cho các ngạch và
các hạng công chức Việt Nam. Mặc
dù không quy định rõ mức tiền lƣơng
tối thiểu để tính toán các bậc lƣơng,
Điều 5 của Sắc lệnh này nêu rõ “Nếu
lƣơng và các khoản phụ cấp kể trên
của một công chức dƣới 220 đồng
một tháng, thì công chức ấy đƣợc lĩnh
220 đồng”. Sắc lệnh chỉ rõ căn cứ để
xác định tiền công tối thiểu là theo giá
sinh hoạt để đảm bảo cuộc sống cho
một NLĐ và xác định trách nhiệm của
các bên trong lĩnh vực trả công lao
động. Đồng thời Sắc lệnh 188-SL còn
quy định thẩm quyền của các cơ quan
trong việc ấn định, công bố mức
lƣơng tối thiểu.
Giai đoạn 1960 - 1985
Ở giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam
đƣợc định hƣớng phát triển theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung. Tất cả
vấn đề lao động đều đƣợc quy định
theo kế hoạch của Nhà nƣớc và đƣợc
triển khai thực hiện bằng mệnh lệnh
hành chính. Đặc biệt trong lĩnh vực
công, mức tiền lƣơng cụ thể cho từng
loại công việc, thời gian trả lƣơng,
hình thức trả lƣơng, nâng bậc lƣơng
và các vấn đề liên quan đều do Nhà
nƣớc định sẵn thông qua hệ thống
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019
59
các bậc lƣơng và hoàn toàn phụ thuộc
vào ngân sách. Ở giai đoạn này, mặc
dù Nhà nƣớc không tiến hành cải cách
tiền lƣơng và công bố mức lƣơng tối
thiểu, nhƣng trong thực tế, lƣơng
danh nghĩa(1) đƣợc tăng nhiều lần
thông qua các hình thức trợ cấp tạm
thời, tiền thƣởng, khuyến khích lƣơng
sản phẩm, lƣơng khoán và điều chỉnh
mức phụ cấp khu vực đối với các địa
phƣơng. Ở giai đoạn này, các văn
bản pháp luật lao động không còn đề
cập và quy định về tiền lƣơng tối thiểu
mà Nhà nƣớc đã giới hạn trực tiếp
bằng việc quy định cụ thể các mức
lƣơng của từng ngành. Trong mỗi
ngành đều có mức lƣơng thấp nhất,
đó chính là mức lƣơng khởi điểm của
ngành trả cho NLĐ ứng với công việc
đòi hỏi trình độ lao động thấp nhất,
cƣờng độ lao động nhẹ nhàng nhất,
ngƣời ta gọi đó là lƣơng bậc một. Nhƣ
vậy, trong cơ chế kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, tiền lƣơng tối thiểu
không đƣợc quan tâm và đề cập đến.
Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1992
Trong giai đoạn này, với chủ trƣơng
chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trƣờng theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa, Chính
phủ quyết định bãi bỏ chế độ cung
cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển
sang chế độ trả lƣơng bằng tiền theo
nguyên tắc phân phối theo lao động,
xóa bỏ bao cấp, bảo đảm tính thống
nhất của chế độ tiền lƣơng trong cả
nƣớc, ổn định và từng bƣớc cải thiện
đời sống của công nhân, viên chức và
các lực lƣợng vũ trang. Nghị định số
235/NĐ-HĐBT ngày 18/9/1985 quy
định mức lƣơng tối thiểu là 220
đồng/tháng. Đây là mức lƣơng đƣợc
dùng để trả công cho những ngƣời
làm công việc lao động giản đơn nhất
và với điều kiện lao động bình thƣờng
tại vùng có mức giá sinh hoạt thấp
nhất. Khi mức giá thay đổi hoặc ở
những vùng có chi phí sinh hoạt cao
hơn, tiền lƣơng đƣợc tính thêm phụ
cấp chênh lệch giá sinh hoạt. Thời
gian này, cuộc sống của NLĐ đã đƣợc
cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, nền kinh
tế còn nhiều khó khăn, tổng thu nhập
quốc dân tính trên đầu ngƣời thấp,
tình trạng lạm phát đã làm cho giá trị
của đồng lƣơng sụt giảm nhanh
chóng và lƣơng không thể hiện đúng
giá trị thực tế sức lao động của NLĐ.
Từ năm 1986, giá cả sinh hoạt tăng
nhanh có khoảng cách xa với mức
lƣơng tối thiểu. Để phù hợp với tình
hình thực tế, tháng 9/1987, Nhà nƣớc
đã Quyết định điều chỉnh lại tiền lƣơng
(trong đó có mức lƣơng tối thiểu) với
các mức tăng khác nhau đối với đơn
vị sản xuất kinh doanh; công nhân,
viên chức hành chính sự nghiệp, cán
bộ xã, phƣờng; và lực lƣợng vũ trang
(Quyết định số 147/HĐBT). Đến tháng
4/1988, một hệ số đƣợc áp dụng
thống nhất cho các nhóm lao động và
chế độ trợ cấp đƣợc áp dụng trong
các tháng tiếp theo.
Ngày 28/12/1988, Quyết định số
202/HĐBT về tiền lƣơng công nhân,
viên chức sản xuất, kinh doanh khu
vực quốc doanh và công ty hợp doanh
và Quyết định số 203/HĐBT về tiền
NGUYỄN ĐẶNG MINH THẢO – TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM
60
lƣơng công nhân, viên chức hành
chính, sự nghiệp, lực lƣợng vũ trang
và các đối tƣợng hƣởng chính sách
xã hội đã nâng mức lƣơng tối thiểu
lên 22.500 đồng/tháng. Nhƣ vậy, khu
vực sản xuất đã đƣợc tách khỏi khu
vực hành chính sự nghiệp khi áp dụng
lƣơng tối thiểu. Tuy nhiên, mức tiền
lƣơng tối thiểu đƣợc quy định cho hai
khu vực này là nhƣ nhau.
Năm 1987, Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài
tại Việt Nam đƣợc thông qua, một
thành phần kinh tế mới đƣợc hình
thành là khu vực kinh tế có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài. Với đặc điểm công việc
yêu cầu trình độ chuyên môn và
cƣờng độ lao động cao hơn so với
công việc tại các doanh nghiệp trong
nƣớc, lao động làm việc trong khu vực
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài cần đƣợc
quy định riêng về tiền lƣơng tối thiểu
nhằm đảm bảo tính công bằng và
đánh giá đúng giá trị sức lao động.
Quyết định số 356-LĐTBXH/QĐ ban
hành ngày 29/8/1990 đã ấn định mức
lƣơng tối thiểu đối với NLĐ làm công
việc giản đơn trong điều kiện lao động
bình thƣờng ở các xí nghiệp có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài là 50 USD/tháng.
Tuy nhiên, việc áp dụng chung một
mức lƣơng tối thiểu trên toàn quốc,
không phân biệt theo vùng miền hay
ngành nghề đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Từ tình hình đó, Quyết định số 242-
LĐTBXH/QĐ đƣợc ban hành ngày
5/5/1992 đã quy định rõ mức lƣơng tối
thiểu trong khu vực có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài là từ 30 đến 35 USD/
tháng tùy thuộc vào từng vùng và
từng ngành nghề.
Giai đoạn từ 1993 đến nay
Ngày 23/5/1993, Chính phủ ban hành
Nghị định số 25-CP quy định tạm thời
chế độ tiền lƣơng mới của công chức,
viên chức hành chính, sự nghiệp và
lực lƣợng vũ trang và Nghị định số 26-
CP quy định tạm thời chế độ tiền
lƣơng mới trong doanh nghiệp. Mức
lƣơng tối thiểu đƣợc áp dụng đồng
thời cho cả hai khu vực trên là
120.000 đồng/tháng. Bộ luật Lao động
năm 1994 đã ghi nhận một cách đầy
đủ, toàn diện về tiền lƣơng tối thiểu.
Theo đó, mức lƣơng tối thiểu đƣợc ấn
định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho
NLĐ làm công việc giản đơn nhất
trong điều kiện lao động bình thƣờng
bù đắp sức lao động giản đơn và một
phần tích lũy tái sản xuất sức lao động
mở rộng, và đƣợc dùng làm căn cứ
để tính các mức lƣơng cho các loại
lao động khác. Mức lƣơng tối thiểu
chung, mức lƣơng tối thiểu vùng và
mức lƣơng tối thiểu ngành cho từng
thời kỳ đƣợc Chính phủ quyết định và
công bố sau khi lấy ý kiến Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam và đại diện
của NSDLĐ. Mức lƣơng tối thiểu
đƣợc điều chỉnh để đảm bảo tiền
lƣơng thực tế khi chỉ số giá sinh hoạt
tăng lên.
Nghị định 197/CP ngày 31/12/1994 và
sau đó là Thông tƣ số 11-LĐTBXH/TT
ngày 3/5/1995 đã đƣợc ban hành
nhằm cụ thể hóa và hƣớng dẫn thi
hành các quy định về tiền lƣơng, tiền
lƣơng tối thiểu đối với lao động Việt
Nam làm việc trong các doanh nghiệp
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019
61
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và các cơ
quan, tổ chức nƣớc ngoài hoặc quốc
tế tại Việt Nam. Theo Thông tƣ này,
mức lƣơng tối thiểu là 35 USD/tháng
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tƣ nƣớc ngoài đóng trên địa bàn Hà
Nội và TPHCM; 30 USD/tháng đối với
các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài đóng trên các địa phƣơng còn
lại hoặc các doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động đơn giản thuộc các
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản. Đối với các ngành,
nghề đã đƣợc thỏa thuận mức lƣơng
tối thiểu cao hơn thì tiếp tục thực hiện
mức lƣơng tối thiểu đó cho đến khi có
quyết định mới.
Để tiếp tục điều chỉnh mức lƣơng tối
thiểu, ngày 21/1/1997 Chính phủ ra
Nghị định số 06/CP về việc giải quyết
tiền lƣơng và trợ cấp năm 1997 đối
với công chức, viên chức hành chính -
sự nghiệp, ngƣời nghỉ hƣu, nghỉ mất
sức, lực lƣợng vũ trang, cán bộ xã,
phƣờng và một số đối tƣợng hƣởng
chính sách xã hội. Mức lƣơng tối thiểu
đƣợc nâng từ 120.000 đồng/tháng lên
144.000 đồng/tháng.
Ngày 15/12/1999, Chính phủ tiếp tục
điều chỉnh mức tiền lƣơng tối thiểu
cho các đối tƣợng hƣởng lƣơng từ
ngân sách nhà nƣớc từ 144.000
đồng/tháng lên 180.000 đồng/tháng
(Theo Nghị định số 175/1999/NĐ-CP).
Đến 15/12/2000, mức tiền lƣơng tối
thiểu đƣợc điều chỉnh lên 210.000
đồng/tháng, áp dụng cho cả khu vực
doanh nghiệp và hành chính, sự
nghiệp (Nghị định số 77/2000/NĐ-CP).
Ở khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,
đƣợc sự ủy quyền của Chính phủ, Bộ
trƣởng Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội ra Quyết định số 708/1999/QĐ-
BLĐTBXH quy định mức lƣơng tối
thiểu áp dụng cho lao động trong khu
vực này là từ 417.000 đồng đến
626.000 đồng/tháng tùy thuộc vào
từng địa phƣơng và từng ngành nghề.
Nhƣ vậy, tiền lƣơng ở thời điểm này
đã đƣợc điều chỉnh tăng nhiều so với
trƣớc đây, góp phần nâng cao chất
lƣợng cuộc sống của NLĐ và gia đình.
Tuy nhiên, dƣới sự tác động của các
quy luật cung - cầu, giá cả, cạnh tranh
đòi hỏi tiền lƣơng tối thiểu phải tiếp
tục đƣợc nâng lên mới thực hiện
đƣợc các nhiệm vụ của nó. Do đó,
ngày 15/12/2000 Chính phủ ra Nghị
định số 77/2000/NĐ-CP về việc điều
chỉnh mức lƣơng tối thiểu, mức trợ
cấp và sinh hoạt phí đối với các đối
tƣợng hƣởng lƣơng, phụ cấp, trợ cấp
và sinh hoạt phí.
Sau 8 năm thực hiện (1994 - 2002)
quy định về tiền lƣơng tối thiểu, Bộ
luật Lao động đã góp phần duy trì tính
ổn định trong các quan hệ lao động.
Nhƣng thực tế đã có nhiều thay đổi
nên các quy định về tiền lƣơng cũng
không còn phù hợp. Do đó, ngày
2/4/2002 Bộ luật Lao động đã đƣợc
sửa đổi, bổ sung. Để cụ thể hóa các
quy định mới, ngày 31/12/2002 Chính
phủ ra Nghị định số 114/2002/NĐ-CP
quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Lao
động về tiền lƣơng thay thế Nghị định
số 197/CP năm 1994.
NGUYỄN ĐẶNG MINH THẢO – TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM
62
Tình hình giá cả leo thang liên tục đòi
hỏi phải có một chính sách tiền lƣơng
mới toàn diện, hợp lý hơn, đảm bảo
đƣợc giá trị của đồng lƣơng trong
thực tế. Do đó, Việt Nam đã thành lập
Ban Nghiên cứu chính sách tiền
lƣơng mới. Ngày 14/12/2004, Chính
phủ ra Nghị định số 203/2004/NĐ-CP
quy định mức lƣơng tối thiểu tăng lên
310.000 đồng/tháng. Ngày 15/9/2005
Chính phủ ra Nghị định số 118/
2005/NĐ-CP điều chỉnh mức lƣơng tối
thiểu chung lên 350.000 đồng/tháng.
Để cụ thể hóa chính sách tiền lƣơng
mới, ngày 4/10/2005, Bộ Lao động -
Thƣơng binh và Xã hội ra Thông tƣ số
25/2005/TT-BLĐTBXH hƣớng dẫn
điều chỉnh tiền lƣơng và phụ cấp
lƣơng trong doanh nghiệp theo Nghị
định số 118/2005/NĐ-CP. Thông tƣ
quy định phạm vi, đối tƣợng điều
chỉnh tiền lƣơng, phụ cấp lƣơng và
hƣớng dẫn cách tính lƣơng cho các
đối tƣợng, đảm bảo cho Nghị định số
118/2005/NĐ-CP đƣợc thực hiện trên
thực tế.
Lần cải cách chính sách tiền lƣơng
này đƣợc thực hiện qua nhiều bƣớc,
vừa đảm bảo cuộc sống của NLĐ và
gia đình họ, vừa không tạo ra gánh
nặng cho quỹ lƣơng của Nhà nƣớc và
NSDLĐ, đảm bảo tính hợp lý và hài
hòa lợi ích giữa các bên tham gia
quan hệ lao động.
Để đảm bảo đời sống của NLĐ và phù
hợp với tình hình chung của nền kinh
tế đất nƣớc, năm 2006 nhà nƣớc Việt
Nam đã có nhiều thay đổi về chính
sách tiền lƣơng. Ngày 7/9/2006,
Chính phủ ban hành Nghị định số
94/2006/NĐ-CP điều chỉnh mức lƣơng
tối thiểu, nâng mức lƣơng tối thiểu
chung lên 450.000 đồng/tháng.
Từ năm 1995 lƣơng tối thiểu theo
vùng chỉ đƣợc áp dụng đối với NLĐ
làm việc trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, cơ quan nƣớc
ngoài và tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Đến năm 2006, lƣơng tối thiểu áp
dụng cho lao động làm việc tại các
doanh nghiệp trong nƣớc mới có sự
phân biệt theo vùng.
Sự thay đổi trong chính sách tiền
lƣơng tối thiểu ở Việt Nam trong thời
gian qua phản ánh các quan điểm tiến
bộ nhằm cải thiện đời sống của NLĐ
và thúc đẩy tăng năng suất lao động.
Năm 2006, lần đầu tiên tiền lƣơng tối
thiểu đƣợc quy định thống nhất theo
vùng và theo thành phần kinh tế. Đến
cuối năm 2011 tiền lƣơng tối thiểu chỉ
còn phân biệt theo 4 vùng. Sự chuyển
đổi chính sách tiền lƣơng tối thiểu
theo vùng là một công cụ điều tiết kinh
tế vĩ mô. Việc quy định mức lƣơng tối
thiểu cao hơn đối với những vùng
phát triển hơn sẽ làm tăng tính cạnh
tranh về việc làm, thu hút đƣợc những
lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, nâng cao năng suất lao động.
Đối với những địa phƣơng kém phát
triển hơn, mức lƣơng tối thiểu sẽ
đƣợc quy định thấp hơn. Điều đó giúp
địa phƣơng có cơ hội thu hút vốn đầu
tƣ, tạo ra nhiều việc làm hơn, thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (254) 2019
63
Ngoài ra, tại mỗi địa phƣơng, chi phí
đảm bảo nhu cầu tối thiểu phụ thuộc
vào hai yếu tố: sự khác nhau về giá cả
hàng hóa và thói quen tiêu dùng của
NLĐ, trong khi giá cả hàng hóa ở mỗi
vùng lại khác nhau, nhất là giữa vùng
nông thôn và đô thị, nơi có các thành
phố lớn. Vì vậy, một trong những mục
tiêu của việc quy định tiền lƣơng tối
thiểu theo vùng là để đảm bảo sức
mua từ tiền lƣơng tối thiểu trong điều
kiện các mức giá khác nhau cho cùng
một loại hàng hóa.
Bên cạnh đó, sự thay đổi này đƣợc
xem là kết quả tất yếu của việc thực
hiện quy định gia nhập WTO, khi mà
khoảng cách tiền lƣơng giữa khối
doanh nghiệp trong nƣớc và FDI cần
đƣợc thu hẹp dần. Còn đối với khu
vực công thì có một chế độ tiền lƣơng
tối thiểu riêng biệt là lƣơng tối thiểu
chung. Vì thế có 2 loại nhƣ sau: lƣơng
tối thiểu chung (còn gọi là lƣơng cơ
bản) và lƣơng tối thiểu vùng. Biểu đồ
sau cho thấy nỗ lực tăng lƣơng tối
thiểu vùng cho NLĐ đƣợc đề xuất liên
tục trong 10 năm (2010 - 2019).
Hiện nay, việc điều chỉnh lƣơng cơ sở
hay lƣơng tối thiểu vùng tƣơng đối
khác nhau. Một mặt, lƣơng cơ sở
đƣợc điều chỉnh phụ thuộc vào ngân
sách quốc gia, do tiền lƣơng chi trả
cho lực lƣợng lao động khu vực công
đƣợc định theo bậc dựa trên mức
lƣơng cơ sở. Mặt khác, lƣơng tối
thiểu vùng đƣợc Chính phủ điều chỉnh
căn cứ vào khuyến nghị của Hội đồng
Tiền lƣơng quốc gia. Chẳng hạn, mức
lƣơng tối thiểu vùng năm 2017 đƣợc
quy định tại Nghị định 141/2017/NĐ-
CP là mức thấp nhất làm cơ sở để
doanh nghiệp và NLĐ thỏa thuận và
trả lƣơng theo vùng. Trong đó, mức
lƣơng trả cho NLĐ làm việc trong điều
kiện lao động bình thƣờng, đủ thời giờ
làm việc bình thƣờng trong tháng và
hoàn thành định mức lao động hoặc
công việc đã thỏa thuận phải bảo
đảm: không thấp hơn mức lƣơng tối
thiểu vùng đối với NLĐ làm công việc
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
Biểu đồ 1. Mức lƣơng tối thiểu vùng qua các năm từ 2010 đến 2019
Đơn vị: Việt Nam đồng
NGUYỄN ĐẶNG MINH THẢO – TIỀN LƢƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM
64
giản đơn nhất; cao hơn ít nhất 7% so
với mức lƣơng tối thiểu vùng đối với
công việc đòi hỏi NLĐ đã qua học
nghề, đào tạo nghề theo quy định.
Khác với lƣơng cơ sở, lƣơng tối thiểu
vùng áp dụng chung cho NLĐ làm
việc theo hợp đồng lao động trong các
doanh nghiệp.
3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ LƯƠNG
TỐI THIỂU KHI ÁP DỤNG Ở CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN
NAY
Ở phần này, chúng tôi nhấn mạnh đến
tác động hai chiều của việc tăng lƣơng
tối thiểu: (i) tác động đối với doanh
nghiệp; (ii) tác động đối với NLĐ.
Việc tăng lƣơng tối thiểu vùng có
những tác động tích cực trong thời
gian qua, tuy nhiên, bất kỳ một giải
pháp kinh tế nào nếu thiếu sự linh
hoạt cũng sẽ mang lại những hệ lụy
nhất định. Với những doanh nghiệp
sử dụng lao động chất lƣợng cao thì
có thể họ không quan tâm hoặc không
ảnh hƣởng nhiều khi tă