Tiếng Việt; các tác phẩm kinh điển của Mác – Ăngghen – Lênin

1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài: Con người muốn biểu đạt ý tưởng, suy nghĩ của mình cần có ngôn ngữ và các hình thức tồn tại của ngôn ngữ. Trong hoạt động xã hội và nghiên cứu khoa học, ngôn ngữ là một phương tiện không thể thiếu. Việc khai thác bản chất, chức năng, nguồn gốc của ngôn ngữ là hết sức cần thiết để hiểu rõ và sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp. Bên cạnh bản chất xã hội, ngôn ngữ còn có bản chất trừu tượng, khái quát. Tìm hiểu quan điểm của các nhà kinh điển bàn về bản chất trừu tượng khái quát của ngôn ngữ để có định hướng đúng và làm cơ sở cho việc sử dụng ngôn ngữ chuyên ngành. 2. Lịch sử nghiên cứu: Ngành ngôn ngữ học có từ cuối thế kỷ IV tr.CN. Vấn đề bản chất trừu tượng khái quát của ngôn ngữ cũng được Mác – Ăngghen – Lênin bàn rất sớm, trong nhiều công trình nghiên cứu như: Bút ký triết học (Lênnin), Chống Đuyrinh (Ăngghen), Biện chứng của tự nhiên (Ăngghen), Bên cạnh đó, các nhà ngôn ngữ học hiện đại, các bài báo cáo khoa học, tạp chí cũng đã bàn nhiều về vấn đề này.

doc12 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2184 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếng Việt; các tác phẩm kinh điển của Mác – Ăngghen – Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU 1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài: Con người muốn biểu đạt ý tưởng, suy nghĩ của mình cần có ngôn ngữ và các hình thức tồn tại của ngôn ngữ. Trong hoạt động xã hội và nghiên cứu khoa học, ngôn ngữ là một phương tiện không thể thiếu. Việc khai thác bản chất, chức năng, nguồn gốc của ngôn ngữ là hết sức cần thiết để hiểu rõ và sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp. Bên cạnh bản chất xã hội, ngôn ngữ còn có bản chất trừu tượng, khái quát. Tìm hiểu quan điểm của các nhà kinh điển bàn về bản chất trừu tượng khái quát của ngôn ngữ để có định hướng đúng và làm cơ sở cho việc sử dụng ngôn ngữ chuyên ngành. 2. Lịch sử nghiên cứu: Ngành ngôn ngữ học có từ cuối thế kỷ IV tr.CN. Vấn đề bản chất trừu tượng khái quát của ngôn ngữ cũng được Mác – Ăngghen – Lênin bàn rất sớm, trong nhiều công trình nghiên cứu như: Bút ký triết học (Lênnin), Chống Đuyrinh (Ăngghen), Biện chứng của tự nhiên (Ăngghen), Bên cạnh đó, các nhà ngôn ngữ học hiện đại, các bài báo cáo khoa học, tạp chí cũng đã bàn nhiều về vấn đề này. 3. Phạm vi nghiên cứu: Tiếng Việt; các tác phẩm kinh điển của Mác – Ăngghen – Lênin. 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp: chọn lọc; phân tích; so sánh; tổng hợp; B. NỘI DUNG I. Quát chung về về bản chất và chức năng của ngôn ngữ: I.1. Bản chất của ngôn ngữ I.1.1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội Ngôn ngữ chỉ sinh ra và phát triển trong xã hội loài người. Bên ngoài xã hội, ngôn ngữ không thể phát sinh. Ngôn ngữ không phải là hiện tượng của cá nhân tôi hay cá nhân anh mà là của chúng ta. Đối với mỗi cá nhân, ngôn ngữ như một thiết chế xã hội chặt chẽ, được giữ gìn và phát triển trong kinh nghiệm, trong truyền thống chung của cả cộng đồng. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng sinh vật vì nó không mang tính di truyền. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Nó không thuộc về kiến trúc thượng tầng của riêng một xã hội nào. Ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Chi tiết... I.1.2. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp và là công cụ của tư duy. “Hoạt động ngôn ngữ có một mặt cá nhân và một mặt xã hội, và không thể quan niệm mặt này mà thiếu mặt kia được”. “Tất nhiên, hai đối tượng này gắn bó khăng khít với nhau và giả định lẫn nhau: ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập; về phương diện lịch sử, sự kiện của lời nói bao giờ cũng đi trước (...) Cuối cùng, chính lời nói làm cho ngôn ngữ biến hoá.” Ngôn ngữ (langue) được thực tại hoá trong lời nói (parole); và lời nói chính là ngôn ngữ đang hành chức, đang được dùng để giao tiếp giữa người với người. I.1.3. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, có bản chất tín hiệu Ngôn ngữ là sự hợp nhất của cái biểu hiện (vỏ âm thanh) và cái được biểu hiện (khái niệm về sự vật, hiện tượng được phản ánh, gọi tên). Hai mặt này không bao giờ tách nhau nhưng lại có quan hệ võ đoán với nhau. Mặt biểu hiện của ngôn ngữ mang tính hình tuyến. Ngay từ đầu, ngôn ngữ đã đồng thời là tín hiệu, mang bản chất tín hiệu. Chính bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, với tất cả những đặc trưng riêng biệt và tính phức tạp trong hệ thống tổ chức của mình, là một nhân tố trung tâm bảo đảm nó trở thành phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, chúng ra bàn về đặc trưng cấu trúc ngôn ngữ. Còn khi nói về bản chất xã hội của ngôn ngữ là chúng ta nói về các mặt chức năng khác nhau của ngôn ngữ trong xã hội. Như là một sự kiện quan trọng của đời sống nhân loại, ngôn ngữ mang trong mình nó cả những đặc điểm của cấu trúc lẫn chức năng. Bởi vì con người là những thực thể vật chất rất cụ thể cho nên những gì đối với con người là quen thuộc thì cũng phải được vật chất hoá như vậy. Chính vì vậy, khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, người ta thường nói về hình thức tín hiệu, đó chính là phương tiện vật chất rất cụ thể mà trong ý thức con người, người ta có thể cảm nhận được thông qua các giác quan cụ thể của mình. Các tín hiệu ngôn ngữ đã tác động trực tiếp đến con người thông qua hai giác quan quan trọng nhất là thính giác và thị giác. Trong hai kênh để truyền tín hiệu đó thì kênh thông quan thính giác là kênh cổ xưa hơn rất nhiều (trong vòng 5000 năm trở lại đây mới có chữ viết). Điều này có thể giải thích như J. Lyons đã từng giải thích: - Trong quá trình lao động, khi đôi tay phải làm việc, đôi chân phải trụ thì chỉ có mắt và tai là rỗi. Tuy nhiên, trong hai cơ quan ấy thì mắt bận rộn hơn do phải thâu nhận hơn 90% thông tin cuộc sống. Chính vì thế, một cách tiêu cực, có thể suy ra rằng tai (thính giác) là có khả năng được sử dụng nhiều hơn cho thông tin về lời nói. - Mặt khác, khi sử dụng thị giác thì đương nhiên sẽ liên quan đến vấn đề ánh sáng trong khi những thông tin cần phải trao đổi giữa con người với nhau thì lại bất kể tối sáng. - Lí do thứ 3 mà loài người chọn âm thanh là do điều kiện lao động của người nguyên thuỷ. Môi trường làm việc lúc bấy giờ là các khu rừng sâu có nhiều cây cối che lấp. Với điều kiện như vậy, thị giác rất khó làm việc [1]. Chính vì vậy, loài người ngay từ cổ xưa đã chọn kênh thính giác làm kênh thông tin chủ yếu để giao tiếp. Engels đã từng nói: “trước hết là lao động và sau đó đồng thời với lao động là ngôn ngữ đã biến bầy vượn thành loài người”. Sự khẳng định này của Engels cũng đồng thời nhấn mạnh rằng: ngôn ngữ nảy sinh từ lao động và chính nhờ lao động, con người đã tìm ra một kênh tối ưu nhất cho việc truyền tải các thông tin qua phương tiện âm thanh. Bên cạnh kênh âm thanh, loài người, sau khi đã phát kiến ra chữ viết, còn sử dụng kênh thị giác cho việc truyền tải các thông tin trong giao tiếp giữa người với người. Tuy nhiên, do hạn chế về phương diện truyền, điều kiện chọn lựa người truyền nên phương tiện thông qua văn tự, chữ viết vẫn chỉ là một dạng phương tiện phái sinh trên một phương tiện vạn năng hơn là ngôn ngữ có âm thanh. Với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập một tín hiệu, bao giờ cũng phải có hai mặt: Đó là mặt biểu hiện (hình thức tín hiệu) và mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu). Mặt hình thức của tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ. Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại. Như vậy, để trở thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm 2 mặt khác nhau là mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện. Mặt biểu hiện làm nhiệm vụ trung chuyển những ý nghĩ, tình cảm, xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe. Nếu không có cái biểu hiện thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là ngôn ngữ không hành chức. Mối liên hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là mối liên hệ rất đặc trưng của ngôn ngữ. Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: mỗi một cái biểu hiện luôn chỉ có một cái được biểu hiện tương ứng. Khi mối liên hệ 1–1 này bị cắt đứt thì các quá trình giao tiếp sẽ bị ảnh hưởng hoặc không thể thực hiện được. Do tính chất và số lượng của các từ trong một ngôn ngữ là vô cùng lớn nên ngôn ngữ học cấu trúc luận cho rằng mối liên hệ 1–1 này phải được coi là võ đoán với nhau và phải được quy ước. Cơ chế tạo nên quan hệ 1–1 được hình dung theo tạo sinh luận như sau: Trong mỗi ngôn ngữ đều có một bộ hay một tập tín hiệu gọi là bộ từ vựng (lexicon) của một ngôn ngữ. Nhưng để một bộ từ vựng có thể hành chức còn cần thêm các luật ngữ pháp (grammartical rules) là quy tắc nối kết các hạng tử (items) có trong bộ từ vựng theo những quy tắc nhằm bộc lộ những thông điệp có riêng trong một ngôn ngữ. (Như vậy, khái niệm ngữ pháp của tạo sinh luận là rộng hơn rất nhiều so với quan niệm thông thường của chúng ta). Tổng hợp của bộ từ vựng và bộ ngữ pháp tạo thành cơ chế phân định và thiết lập mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện của từng tín hiệu trong ngôn ngữ. Khi mối quan hệ cơ giới 1–1 bị phá vỡ thì nó có nguy cơ làm phương hại tới quá trình giao tiếp của một cộng đồng nói năng cụ thể. Nguyên nhân của sự phá vỡ này có thể là: 1, Vì cơ chế của bộ từ vựng một ngôn ngữ là cơ chế mở (open) để đáp ứng nhu cầu phản ánh thực tại. 2, Các luật ngữ pháp có những biến động do có sự tiếp xúc văn hoá (culture contact) từ những ngôn ngữ khác. Chính những biến động như vậy sẽ làm ngôn ngữ phát triển nhưng cũng có thể sẽ làm ngôn ngữ bị phân tầng, phân lớp mạnh mẽ có khi đến mức không thể kiểm soát được. Trong lí thuyết tín hiệu học hiện đại, bộ từ vựng và bộ ngữ pháp của một ngôn ngữ còn được gọi là mã của ngôn ngữ đó. Trong ngôn ngữ học, mặc dù cái được biểu hiện (hay mặt nội dung) là quan trọng nhưng trong việc nghiên cứu ngôn ngữ học, do nguyên tắc tín hiệu học quy định, người ta thường chú trọng rất nhiều đến cái biểu hiện hay mặt hình thức của ngữ nghĩa. Theo nguyên tắc của chủ nghĩa miêu tả Mĩ thì thậm chí người ta có thể bỏ mặt cái được biểu hiện mà vẫn có thể khái quát hoá được đặc trưng của ngôn ngữ. Đó chính là khuynh hướng hình thức hoá trong việc nghiên cứu ngôn ngữ mà trường phái hậu tạo sinh luận đang kế tục và phát huy. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về các đặc trưng tín hiệu của ngôn ngữ thì việc nghiên cứu các quan hệ giữa các tín hiệu cũng là một công việc rất quan trọng. Bởi, giá trị của một yếu tố (một tín hiệu) ngoài việc được xác định bằng các đặc trưng của cái được biểu hiện – mặt ngữ nghĩa của tín hiệu – thì còn được xác định, trong tuyệt đại đa số các trường hợp, bằng các đặc điểm phân bố của yếu tố đó trong các phát ngôn khác nhau. Các đặc điểm phân bố này chính là sự thể hiện ra bên ngoài của các mối quan hệ có thật giữa các tín hiệu trong một ngôn ngữ. Ngôn ngữ học thường chia các quan hệ này theo các cấp độ mang tính phổ quát của tất cả các ngôn ngữ. Đó là các cấp độ âm vị học và mối quan hệ âm vị học; cấp độ hình thái học (từ) và các quan hệ từ pháp học; cấp độ cú pháp học (câu, phát ngôn) và các quan hệ cú pháp học; cấp độ văn bản (trên câu và phát ngôn) và các quan hệ liên kết trong văn bản. Thông tin do các quan hệ này đưa lại thường không phải là các thông tin về định danh học (nghĩa từ vựng của từ) cũng không phải là các thông tin logic học (thông tin logic của một câu) mà là những thông tin về giá trị của tín hiệu thông tin đó trong hệ thống, những thông tin về hệ thống, cấu trúc hay nói như Nguyễn Tài Cẩn đó là các nghĩa cấu trúc. Tín hiệu (hạng tử) Các tín hiệu (quy luật) Thực thể - cbh: vật chất hoá tín hiệu - cđbh: phi vật chất, ý niệm → mã ngôn ngữ - tín hiệu: đơn vị - quan hệ tín hiệu: theo các cấp độ xác định (4 cấp) Sự dùng (usage) - định danh, phân cắt - dấu hiệu ngữ pháp phản ánh tính trọn vẹn của thực tại vào tư duy I.2. Chức năng của ngôn ngữ Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả các nhu cầu của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năng của con người vì nó hành trình cùng con người, từ lúc con người xuất hiện cho đến tận ngày nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ sung và hoàn thiện dần theo lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ cổ xưa đến tận ngày nay. Ngày nay, hầu như không còn ngôn ngữ nào là chưa có ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại lai. Nói cách khác, tất cả các ngôn ngữ đang tồn tại hiện nay đều đã từng trải qua những quá trình tiếp xúc văn hoá với ngôn ngữ khác bên ngoài. Chính vì vậy, chúng ta không thể nói về độ thuần khiết (pure), độ trong sáng của một ngôn ngữ xét theo nguồn gốc, xét theo nguyên lai. Thông thường, khi nói về các chức năng của ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ thường bàn về 2 chức năng quan trọng: - Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng - Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vạn năng trong xã hội. I.2.1. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng Chức năng thứ nhất này là chức năng về mặt kí hiệu hoá các tư tưởng hệt như mối quan hệ giữa cái biểu hiện – cái được biểu hiện trong lí thuyết của tín hiệu học hiện đại. Trong mối quan hệ này, tư tưởng và tư duy là cái được biểu hiện còn ngôn ngữ là cái biểu hiện. Chính nhờ có ngôn ngữ mà thực tại được phân cắt ra thành các khái niệm (mà cái biểu hiện của nó là các từ, ngữ). Nếu không có ngôn ngữ thì con người không có một phương tiện này để phân cắt thực tại ra các khái niệm. Chính các từ, ngữ định danh của một ngôn ngữ đã cố định hoá các ý tưởng về thực tại của con người vào các khái niệm cụ thể. Vd: Khái niệm "cái bàn" và từ bàn Trong tiến trình phát triển nhận thức của loài người, đầu tiên, các từ có nội dung nghèo nàn và mờ nhạt. Nhưng do ảnh hưởng của tiến trình văn hoá nhân loại mà các từ dần dần được cấp thêm những nét nghĩa tinh tế hơn cho phù hợp với tư duy của con người về sự vật mà từ phản ánh. Trong tiến trình này, từ chỉ còn là một cái vỏ – nơi để đổ đầy tư duy của chúng ta về một sự vật cụ thể. Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ thường được các nhà logic học hình dung theo 3 cấp độ sau đây: CĐBH Tư duy (HT ý niệm) CBH Ngôn ngữ (HT tín hiệu) 1 Khái niệm Từ ngữ định danh (từ) 2 Phán đoán Ngữ, câu/ phát ngôn (câu) 3 Suy lí Tập phát ngôn, đoạn (văn bản) 1.2.2. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vạn năng Để đáp ứng được các nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất nhiều các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có những hệ thống tín hiệu có thể vượt qua các biên giới quốc gia, các ranh giới của thể chế chính trị để phục vụ loài người (Ví dụ: hệ thống kí hiệu hoá học, toán học)... Nhưng người dùng chúng lại rất chọn lọc (Ví dụ: ít nhất phải có trình độ học vấn nhất định, hoặc phải là những nhà chuyên môn có trình độ cao). Tính chọn lọc cao như vậy là xa lạ với ngôn ngữ từng tộc người (ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn... mà phục vụ cộng đồng một cách vô tư). Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ phải được hiểu là một phương tiện không kén người dùng. Vạn năng có nghĩa là sự phổ biến và phổ thông (phổ cập). Đó là nghĩa về số lượng. Nghĩa thứ hai của vạn năng là nghĩa về chất lượng của phương tiện giao tiếp: Ngôn ngữ có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu (từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm; đến những nhu cầu về khuyến lệnh (request) của người nói với người nghe; đến những nhu cầu về trao đổi các kinh nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức)... Trong khi đó, những phương tiện khác chỉ đáp ứng được một phần nào đó rất nhỏ những nhu cầu về bộc lộ và giao tiếp của con người. Tóm lại, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp vạn năng, bởi vì: - Về mặt số lượng: Nó phục vụ đông đảo các thành viên trong cộng đồng; - Về mặt chất lượng: Nó giúp cho các thành viên trong cộng đồng có thể bộc lộ hết các nhu cầu giao tiếp. II. Quan điểm của các nhà kinh điển về bản chất trừu tượng và khái quát của ngôn ngữ: II. 1. Khái quát về ngôn ngữ và bản chất trừu tượng, khái quát của ngôn ngữ: Ngôn ngữ là một hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho việc giao tiếp, được phản ánh trong ý thức của tập thể một cách độc lập với những tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng cụ thể của con người, cũng như trừu tượng hoá khỏi những tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng đó. Ngôn ngữ được xem là người bạn đường không thể thiếu của con người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người luôn quan tâm đến ngôn ngữ và xây dựng cả một khoa học về nó_ Ngôn ngữ học. Những tài liệu về ngôn ngữ học cổ nhất được tìm thấy ở Ấn Độ, Hy Lạp và Ả rập. Ngôn ngữ học ra đời không phải xuất phát từ những suy nghĩ trừu tượng của các siêu nhân mà xuất phát từ bản thân những yêu cầu trong đời sống của con người. Ngôn ngữ học ra đời và phát triển để đáp ứng nhu cầu đời sống đặt ra. Những tiến bộ của ngôn ngữ học được đánh dấu bằng sự ra đời, thay thế lẫn nhau của các phương pháp nghiên cứu mới. Đặc thù riêng biệt của ngôn ngữ là phục vụ xã hội, làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người, làm phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, làm phương tiện giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau và cùng tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động. Gọi là đặc thù bởi chỉ riêng ngôn ngữ mới có. Bên cạnh bản chất xã hội, ngôn ngữ còn có bản chất trừu tượng, khái quát. Trừu tượng nghĩa là khó hiểu, khó hình dung. Khái quát nghĩa là thâu tóm những cái có tính chất chung cho một loạt sự vật, hiện tượng. Trừu tượng trong ngôn ngữ nghĩa là những đơn vị ngôn ngữ không thể cảm nhận trực tiếp bằng giác quan, mà phải bằng tư duy, nhận thức mới nhận biết được. Muốn nhận biết cái trừu tượng ấy phải xuất phát từ lời nói. Quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói như mối quan hệ giữa vật chất và vật thể. Những gì là sản phẩm của nhận thức đều mang tính trừu tượng, nó không tự nhiên mà có, mà là xuất phát từ lời nói. II. 2. Quan điểm của các nhà kinh điển về bản chất trừu tượng, khái quát của ngôn ngữ: Bàn về bản chất trừu tượng khái quát của ngôn ngữ, Mác cho rằng: Ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng khái quát. Tại sao ở đây, Mác không nói ngôn ngữ là vật thể mà là thực thể? Mặc dù ngôn ngữ là một đối tượng cách biệt có hệ thống, cấu trúc bên trong, nhưng vì ngôn ngữ trừu tượng nên được gọi là thực thể, chứ không phải là vật thể. Lênin thì cho rằng: Trong ngôn ngữ chỉ có cái chung, cái khái quát. Ở đây, Lênin lấy phạm trù cái chung, cái riêng làm cơ sở lý luận để xem xét. Các đơn vị của ngôn ngữ (âm vị, hình vị, từ, câu,..) là những đơn vị trừu tượng được nhận thức bằng tư duy trừu tượng chứ không phải tiếp nhận trực tiếp. Từ là đơn vị trừu tượng nên nhận thức mỗi người là khác nhau. Mỗi đơn vị từ mà ta nói diễn đạt một loại ý nghĩa. Theo Phơ Bách: “Bất cứ một từ nào (lời nói) cũng đã là khái quát cả rồi”[4 : 87]. Bên cạnh đó, chữ viết có vai trò rất to lớn. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp chủ yếu của con người dẫu sao vẫn có những hạn chế nhất định. Vì vỏ vật chất của ngôn ngữ là âm thanh cho nên nếu ở xa nhau không thể nghe nhau nói được, lại có những hạn chế rất khác. Mỗi lời nói chỉ được thu nhận vào lúc nó phát ra, sau đó không còn nữa. Ngôn ngữ cũng không vượt qua được cái hố ngăn cách về thời gian Chữ viết dựa trên ấn tượng về thị giác cho nên có thế thắng được không gian, thời gian. Ngôn ngữ là tập hợp của các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các yếu tố ấy được gọi là các đơn vị ngôn ngữ, còn mạng lưới quan hệ giữa chúng là cấu trúc hệ thống ngôn ngữ. Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa. Là bộ phận nhỏ nhất cấu tạo nên từ. Một từ có thể gồm một hoặc nhiều hình vị. Ví dụ; nhà, sân; hoặc: nhà máy, sân bay; hoặc: công nghiệp hoá, hiện đại hoá;Từ là đơn vị có khả năng hoạt động độc lập. Cụm từ là các tổ hợp từ bao gồm từ hai thực từ có quan hệ ngữ pháp với nhau trở lên. Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng thông báo một sự việc, một ý kiến, một tình cảm hoặc một cảm xúc. Để nhận thức được các đơn vị trừu tượng của ngôn ngữ thì chúng ta phải dựa vào các đơn vị cụ thể vật chất là lời nói (âm thanh, chữ viết). Với Lênin : “Ngôn ngữ, về thực chất, chỉ diễn đạt cái phổ biến mà thôi; nhưng cái mà người ta nghĩ đến thì lại là cái đặc thù, cái cá biệt. Vì thế cho nên, không thể diễn đạt được bằng lời nói những điều mà người ta nghĩ. Trong ngôn ngữ chỉ có những cái khái quát mà thôi”[4 : 88]. Cái gì là sản phẩm của ý thức, cái đó luôn mang bản chất trừu tượng. Ngôn ngữ là sản phẩm của ý thức, vì vậy nó mang bản chất trừu tượng. Nhưng ý thức luôn được hình thành từ thế giới vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là tiền đề về mặt triết học để chúng ta hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngôn ngữ và lời nói. “Không nên xem tư duy