Tóm tắt
Là nơi chuyển tiếp giữa lục địa và biển, vùng ven biển Hải Hậu - Nghĩa Hưng
tỉnh Nam Định chịu sự tác động mạnh của các yếu tố tự nhiên như địa chất, địa hình,
khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật, đặc biệt là các hoạt động của con người.
Thuộc vùng đệm và vùng chuyển tiếp Khu Dự trữ sinh quyển thế giới đất ngập nước
ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng, khu vực phát triển kinh tế - xã hội năng động
của tỉnh Nam Định và khu Kinh tế trọng điểm Ninh Cơ, vùng ven biển huyện Hải Hậu
- Nghĩa Hưng đang hướng tới trở thành trung tâm phát triển kinh tế của Đồng bằng
sông Hồng nên khu vực này đang nảy sinh những mâu thuẫn trong quy hoạch, khai
thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Tiếp cận địa lý để nghiên
cứu, nhận diện và đánh giá một cách đầy đủ bản chất tự nhiên, chức năng kinh tế của
các thể tổng hợp tự nhiên vùng ven biển Hải Hậu - Nghĩa Hưng trong phân vùng chức
năng không gian phục vụ các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững khu vực có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận địa lý trong phân vùng chức năng không gian ven biển huyện Hải Hậu - Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 201714
TIẾP CẬN ĐỊA LÝ TRONG PHÂN VÙNG CHỨC NĂNG
KHÔNG GIAN VEN BIỂN HUYỆN HẢI HẬU - NGHĨA HƯNG,
TỈNH NAM ĐỊNH
Hoàng Quốc Lâm
Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Tóm tắt
Là nơi chuyển tiếp giữa lục địa và biển, vùng ven biển Hải Hậu - Nghĩa Hưng
tỉnh Nam Định chịu sự tác động mạnh của các yếu tố tự nhiên như địa chất, địa hình,
khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật, đặc biệt là các hoạt động của con người.
Thuộc vùng đệm và vùng chuyển tiếp Khu Dự trữ sinh quyển thế giới đất ngập nước
ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng, khu vực phát triển kinh tế - xã hội năng động
của tỉnh Nam Định và khu Kinh tế trọng điểm Ninh Cơ, vùng ven biển huyện Hải Hậu
- Nghĩa Hưng đang hướng tới trở thành trung tâm phát triển kinh tế của Đồng bằng
sông Hồng nên khu vực này đang nảy sinh những mâu thuẫn trong quy hoạch, khai
thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Tiếp cận địa lý để nghiên
cứu, nhận diện và đánh giá một cách đầy đủ bản chất tự nhiên, chức năng kinh tế của
các thể tổng hợp tự nhiên vùng ven biển Hải Hậu - Nghĩa Hưng trong phân vùng chức
năng không gian phục vụ các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững khu vực có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Từ khóa: Tiếp cận địa lý, Phân vùng chức năng, Quy hoạch tổng hợp không
gian ven biển, Nam Định.
Abstract
Geographical approach in marine functional spatial zonning in Hai Hau -
Nghia Hung, Nam Dinh
Being a transitional zone between land and sea, coastal areas of Hai Hau -
Nghia Hung, Nam Dinh are strongly infl uenced by many factors such as geology,
topography, climate, hydrology, soils, vegetation and especially, human activities.
As part of the buffer zone and transition zone of the Red River Delta Biosphere
Reserve as well as the dynamic economic - social development region of Nam
Dinh province, Hai Hau has been facing complex confl icts in natural resources
exploitation and environmental protection. Geographical approach was used to
identify and evaluate the values of natural systems Hai Hau - Nghĩa Hưng in marine
functional spatial planning. This has high scientifi c and practical signifi cance
towards sustainable development of Hai Hau.
Keywords: Geographical approach, Functional partitioning, Integrated
planning of coastal area, Nam Dinh
1. Đặt vấn đề
Khái niệm “không gian và quy
hoạch không gian” gắn liền với Địa lý
học hiện đại. Lý thuyết địa lý xác định
rằng các yếu tố tự nhiên như địa chất,
địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng,
sinh vật và các bộ phận của cảnh quan
tự nhiên, đã tạo nên hệ thống các đới,
các vùng địa lý khác nhau trên bề mặt
Trái đất, tạo ra các dạng tài nguyên thiên
nhiên (TNTN) cung cấp cho con người
khai thác sử dụng. Không gian là một
khái niệm được sử dụng rộng rãi trong
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 2017 15
nhiều lĩnh vực khoa học. Không gian
địa lý được đề cập với tư cách là phần bề
mặt Trái đất được con người sử dụng và
sắp xếp, quy hoạch cho những hoạt động
xã hội đa dạng và phức tạp của mình.
Không gian địa lý bao gồm cả phần đất
liền, vùng trời và lòng đất, được huy
động vào sản xuất và dịch vụ vì mục
đích phát triển và bảo vệ môi trường
(BVMT). Tiếp cận địa lý để nghiên cứu,
nhận diện và đánh giá một cách đầy
đủ bản chất tự nhiên, chức năng kinh
tế của các thể tổng hợp tự nhiên trong
quy hoạch không gian (QHKG), quy
hoạch tổng hợp không gian ven biển
(QHTHKGVB) cho các mục đích phát
triển kinh tế, xã hội (KT-XH), BVMT
và phát triển bền vững (PTBV) [1] có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Tiếp cận đị a lý trong quy hoạch
tổng hợp không gian
Quy hoạch (QH) là một khái
niệm quen thuộc được áp dụng ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới. QHKG
được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau. Một trong những định nghĩa sớm
nhất được đề cập trong Hiến chương
QHKG/Vùng khu vực châu Âu (the
European Regional/Spatial Planning
Charter) - thường được gọi là "Hiến
chương Torremolinos", được Hội nghị
Bộ trưởng châu Âu Phụ trách QH vùng
(the European Conference of Ministers
responsible for Regional Planning -
CEMAT) thông qua vào năm 1983: “QH
vùng/không gian là sự biểu diễn địa lý về
các chính sách KT-XH, văn hóa và sinh
thái. Ngoài ra, đây cũng là một ngành
khoa học, một kỹ thuật hành chính và
chính sách được phát triển như là một
cách tiếp cận đa ngành và toàn diện
hướng tới một sự phát triển vùng cân
bằng và tổ chức không gian theo một
chiến lược tổng thể”. Liên hiệp quốc
định nghĩa: QHKG (Spatial Planning)
quan tâm đến “vấn đề phối hợp hoặc
tích hợp các chính sách ngành theo các
chiều không gian thông qua một chiến
lược dựa trên lãnh thổ” (Cullingworth
và Nadin, 2006). QHKG là một khái
niệm tương tự với tổ chức/QH lãnh
thổ bao gồm QH sử dụng đất, QH đô
thị, QH vùng, QH giao thông, QH môi
trường, QH phát triển kinh tế,và được
diễn ra ở nhiều cấp lãnh thổ, từ cấp địa
phương, cấp vùng, cấp quốc gia và cấp
liên quốc gia và trong hầu hết trường
hợp sẽ tạo ra một bản QHKG kèm theo
(Faludi và Waterhout, 2002) do vậy,
dạng QH này được áp dụng phổ biến,
rộng khắp ở tất cả các quốc gia trên thế
giới, bởi một lẽ đơn giản: mọi hoạt động
của con người đều gắn với không gian.
Theo Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, QH là “việc lựa chọn
phương án phát triển và tổ chức không
gian KT-XH cho thời kỳ dài hạn trên
lãnh thổ xác định” [20]. Tương tự, QH
ngành hay QH lãnh thổ cũng là việc lựa
chọn phương án phát triển cơ cấu kinh
tế ngành dựa trên nguyên tắc phân công
lao động theo ngành/lãnh thổ và giải
quyết được mối quan hệ liên ngành và
liên vùng [9]. Theo Archibugi (2008),
Allmendinger và Tewdwr-Jones (2002),
Palermo và Ponzini (2010) và Taylor
(1998) QH được hình thành từ cách
tiếp cận không gian vật thể sau đó lồng
ghép các cách tiếp cận KT-XH và môi
trường trong việc sử dụng không gian
[11]. Theo Glasson và Marshall (2007)
QHKG có sự liên quan chặt chẽ với QH
vùng, bởi thực chất, QHKG chính là sự
“tiến hóa” của QH vùng nhưng phạm
vi không gian được mở rộng hơn và
“mềm” hơn. Glasson và Marshall cũng
cho rằng, dù QH có được sử dụng như
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 201716
thế nào trong các thời kỳ phát triển khác
nhau, nó đều liên quan trực tiếp đến việc
phát triển không gian trong tương lai,
cũng theo nhóm tác giả này, QH là việc
bố trí có mục đích hướng đến không gian
tương lai của một tập hợp lớn các hoạt
động trong/trên một phạm vi đất đai hay
nguồn vật chất, nguồn lực có hạn [5].
“Vùng là một khái niệm được sử
dụng khá phổ biến trong quá trình phát
triển KT-XH của một số quốc gia. Vùng
là không gian, là một trong những hình
thái tồn tại của vật chất” [12]; Vùng
là một thực thể khách quan, một bộ
phận (một đơn vị Taxon cấp cao) của
lãnh thổ, có một sắc thái đặc thù nhất
định, hoạt động như một hệ thống do
có những mối quan hệ tương đối chặt
chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó,
cũng như những mối quan hệ có chọn
lọc và với các không gian các cấp bên
ngoài [7], liên kết với nhau theo một số
quy luật đặc thù tuỳ theo mục tiêu của
hệ thống phân vùng đòi hỏi con người
phải có nhận thức đúng đắn và nhận biết
rõ ràng về vùng, để vận dụng những đặc
tính khách quan của thực thể đó ở trạng
thái cân bằng nội tại trong các chính
sách nói chung và điều tiết sự mất cân
đối của vùng do tác động của con người
nói riêng. Vùng địa lý được phân theo
tính tương đối đồng nhất của các yếu tố
địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình,
địa chất; vị trí địa lý cũng là một trong
số các yếu tố tạo vùng rất quan trọng,
đặc biệt khi vị trí đó hội tụ đầy đủ các
nhân tố thời cơ tập trung các quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội,... Pertxik cho
rằng “vùng là đối tượng của QH vùng và
là một bộ phận của vùng kinh tế, thuộc
cấp thấp theo phân vị, do đó phân vùng
không gian là cơ sở khoa học của QH
vùng” [13]. Về bản chất, cách tiếp cận
dựa vào ‘vùng’ (area-based approach)
là cách tiếp cận trong ‘QH không gian
biển’ (Marine Spatial Planning - MSP)
dựa vào hệ sinh thái mà một trong những
công cụ quan trọng của nó là ‘Phân
vùng chức năng biển’ (Marine Function
Zoning - MFZ) [4].
Phân vùng là một khái niệm tương
đối phổ biến, được hiểu là phân chia một
lãnh thổ lớn thành những lãnh thổ đồng
cấp có quy mô nhỏ hơn theo những cách
thức khác nhau tùy thuộc vào góc độ
nghiên cứu và phục vụ cho những mục
tiêu nhất định. Yếu tố không gian lãnh
thổ và địa lý - kinh tế là tiêu chí quan
trọng để phân vùng, mục tiêu chung của
hoạt động phân vùng là giải quyết mâu
thuẫn (giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với nhau), các bất hợp lý
trong sử dụng tài nguyên và không gian,
qua đó giảm thiểu và loại trừ các bất
cập về môi trường, sinh thái, KT-XH,
Trong thực tế phân vùng là hệ thống cho
phép ngăn ngừa các tác động bất lợi của
sự phát triển đối với môi trường. Đặc
trưng của phân vùng là chỉ rõ các vùng
có thể hoạt động cư trú, công nghiệp,
giải trí hoặc thương mại, nhưng cần
đảm bảo tính toàn vẹn lãnh thổ (không
lặp lại); tính ước định ranh giới (có
thể xác định hoặc không) và tính chủ
quan trong phân vùng thể hiện mục
đích của phân vùng [3]. Trên thế giới,
việc phân vùng đã được sử dụng rộng
rãi trong quy hoạch đô thị, điều chỉnh
sử dụng đất ở Bắc Mỹ, Anh và Úc,
Trong khi các thành phố của châu Âu
kiểm soát phát triển từ cuối thế kỷ 19
mà ngày nay được biết như phân vùng
chức năng (PVCN), thành phố New
York phân vùng đầu tiên vào năm 1916.
Vào cuối những năm 1920 nhiều nước
đã thực hiện việc điều chỉnh PVCN đáp
ứng nhu cầu phát triển. PVCN không
gian thực chất là sự phân chia lãnh thổ
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 2017 17
thành các khu vực khác nhau dựa vào
đặc điểm tự nhiên, KT-XH, môi trường
và vị trí phân bố của đơn vị lãnh thổ với
các đặc điểm tổng hợp sau: Là một đơn
vị địa lý tự nhiên; Là một đơn vị kinh
tế; Là một đơn vị xã hội và phù hợp với
địa giới hành chính. PVCN để tránh
xung đột giữa khai thác tài nguyên,
phát triển kinh tế với BVMT. Theo khái
niệm như trên, PVCN là việc phân định
không gian trong đó những không gian
cần được bảo tồn, cần được cải tạo,
hoặc cần và có thể được phát triển với
mức độ khác nhau theo các đặc điểm tự
nhiên, sinh thái và KT-XH để khai thác,
sử dụng và quản lý TNTN, môi trường
và các giá trị chung một cách hiệu quả,
đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH vùng
một cách bền vững.
3. Tiếp cận địa lý trong quy hoạ ch
tổ ng hợ p không gian ven biể n
Tiếp cận địa lý trong QHTHKGVB
được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu
toàn diện các đặc điểm địa lý của khu
vực nghiên cứu. QHTHKGVB là một
quá trình phân tích và phân bổ phân bố
không gian và thời gian của các hoạt
động của con người trong vùng biển
thành các tiểu vùng để đạt được mục
tiêu sinh thái, KT-XH; quá trình phân
chia lãnh thổ ven biển thành các tiểu
vùng không gian cụ thể một cách toàn
diện, tích hợp, có tính minh bạch, có tính
thích nghi, tiếp cận dựa vào hệ sinh thái
và dựa trên cơ sở khoa học nhằm phân
tích hiện trạng và dự báo tương lai đối
với việc khai thác, sử dụng không gian
vùng ven biển [10]. Các tiểu vùng này
được phân chia dựa trên các tiêu chí về
tính đồng nhất tương đối của điều kiện
tự nhiên, tính đặc thù của tài nguyên và
khả năng khai thác, sử dụng các dạng tài
nguyên đó nhằm tạo ra và tổ chức một
cách hợp lý trong sử dụng không gian
biển và tương tác giữa các lợi ích, nhằm
cân bằng nhu cầu phát triển với sự cần
thiết phải bảo vệ hệ sinh thái ven biển.
QHKGTHVB có đặc trưng hiệu quả là
sử dụng cách tiếp cận địa lý khác nhau,
như sau:
(1). Tiếp cận dựa trên hệ sinh thái
(EbA): Cách tiếp cận tổng hợp, khoa học,
chú trọng xem xét toàn bộ hệ sinh thái,
các mối liên hệ xuyên suốt trong toàn hệ
thống, các ảnh hưởng, tác động tích tụ
do các hoạt động của con người tạo ra để
QLTNTN, tăng cường bảo vệ và sử dụng
bền vững theo hướng công bằng.
(2). Hệ sinh thái khu vực nghiên
cứu: Cửa sông tạo ra sự chuyển đổi giữa
môi trường của sông và môi trường của
biển, có khả năng ảnh hưởng đến thành
phần của biển như thủy triều, sóng và độ
mặn của nước và ảnh hưởng đến thành
phần của sông như tốc độ dòng chảy và
trầm tích. Cửa sông, đầm lầy đóng một
vai trò quan trọng trong việc duy trì sự
cân bằng thủy học, lọc chất gây ô nhiễm
và cung cấp môi trường sống cho các
loài chim, cá và động vật thân mềm,
động vật giáp xác và các loại sinh vật
quan trọng khác. Các mối đe dọa chính
đối với hệ sinh thái cửa sông ven biển
bao gồm quá trình phát triển, ô nhiễm,
thay đổi chế độ thủy văn, cũng như các
mối đe dọa từ thượng nguồn.
Bãi biển thuộc khu vực nghiên cứu:
Bãi biển là nơi cung cấp không gian giải
trí cho con người. Việc xây dựng các
trung tâm đô thị và khu du lịch bãi biển/
gần bãi biển cũng có thể làm thay đổi
môi trường sống và các dịch vụ của hệ
sinh thái bãi biển do vấn đề rác thải và ô
nhiễm môi trường.
(3). Tiế p cậ n PVCNKG tổng hợp:
Là cách tiếp cận hợp lý và đúng đắn của
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 201718
việc phân bổ các nguồn tài nguyên và
không gian ven bờ cho các mục đích sử
dụng, hoạt động, chức năng khác nhau
có tính đến tình trạng của các hệ sinh
thái, phù hợp với tầm nhìn và các mục
tiêu phát triển bền vững. Cách tiếp cận
này cho phép QH và quản lý cùng lúc
nhiều mục đích sử dụng KGVB, đặc
biệt là những khu vực vấn đề mâu thuẫn
trong sử dụng được xác định rõ nhằm
quản lý các nguồn tài nguyên trong khu
vực cũng như giải quyết hoặc giảm thiểu
các mâu thuẫn hiện tại và tiềm ẩn trong
tương lai.
(4). Tiếp cận hệ thống: Đối tượng
nghiên cứu được xem xét như là một bộ
phận của hệ thống bao gồm các yếu tố cấu
thành có liên hệ chặt chẽ. Hoạt động của
hệ thống được quyết định bởi sự tương
tác giữa các yếu tố trong hệ thống, hoặc
giữa các yếu tố của hệ thống với các yếu
tố của môi trường xung quanh và đều
chịu sự chi phối bởi các quy luật có tính
nhân quả theo nguyên tắc họat động của
một hệ thống hoàn chỉnh. Cách tiếp cận
hệ thống sẽ được sử dụng để phân tích
các mối liên hệ giữa các yếu tố về điều
kiện tự nhiên, xã hội, mối đe dọa và thứ
tự ưu tiên để từ đó xây dựng các mục
đích, mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể
của QHTHKGVB (ISP).
(5). Tiếp cận liên vùng - liên ngành:
Đối tượng và khu vực nghiên cứu được
xem xét trong mối liên hệ với các khu
vực xung quanh (liên vùng) và từ nhiều
góc độ (lĩnh vực) liên quan (liên ngành).
Sử dụng phương pháp tiếp cận tích hợp
liên ngành đề xuất xây dựng các liên
kết vi mô và vĩ mô, xem xét rõ ràng các
liên kết giữa các vấn đề địa mang tính
địa phương (chẳng hạn như phân bổ
nguồn lực giữa những người sử dụng tài
nguyên khác nhau) với các vấn đề quốc
gia, bao gồm chính sách, các thay đổi
kinh tế hoặc xã hội, chẳng hạn như việc
áp dụng một chính sách hoặc luật thuỷ
sản mới, tự do hóa thị trường. Về thực
chất cách tiếp cận này cũng là cách tiếp
cận hệ thống.
(6). Tiếp cận “Kế thừa - Phát triển
- Áp dụng”: Kế thừa các nghiên cứu
cơ bản, nền tảng, những phương pháp
nghiên cứu mới,...và phát triển các sản
phẩm nghiên cứu đó để áp dụng cho
khu vực và đối tượng nghiên cứu. Để
có được kết quả nghiên cứu tốt cần kế
thừa triệt để các kết quả nghiên cứu đã
có trước đây, lập kế hoạch nghiên cứu
trọng tâm những phần còn thiếu phục vụ
cho mục tiêu của nghiên cứu.
(7). Tiếp cận tham gia: Nguyên tắc
tham gia đượ c sử dụ ng trong tiếp cận
để xây dựng quy hoạch tổng hợp không
gian ven biển (ISP) thể hiện hành động
không chỉ ở đánh giá, mà là nhằm thực
hiện “học đi đôi với hành” - một hình
thức thay đổi xã hội [8], [12].
Như vậy, tiếp cận địa lý học trong
QHTHKGVB chính là cách tiếp cận
đánh giá các thể tổng hợp tự nhiên của
một vùng ven biển nhằm xác định được
mối quan hệ và sự biến đổi của các thành
phần tự nhiên, các tính chất môi trường
của lãnh thổ với hoạt động của con
người trong quá trình khai thác sử dụng
TNTN của lãnh thổ đó. Trong nghiên
cứu địa lý, đánh giá tổng hợp các thể
tổng hợp tự nhiên là phương pháp chủ
đạo nhằm xác định các mối quan hệ và
những tác động tương hỗ giữa các yếu
tố và thành phần tự nhiên trong thể tổng
hợp cũng như giữa các thể tổng hợp với
nhau. Đánh giá tổng hợp làm sáng tỏ mối
quan hệ trong tổ chức không gian, cấu
trúc động lực của các thể tổng hợp và sự
phân hóa của các dạng tài nguyên, điều
kiện tự nhiên, TNTN và môi trường các
vùng lãnh thổ nhằm đề xuất khả năng
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 2017 19
khai thác và sử dụng hợp lý TNTN phục
vụ cho các mục đích phát triển KT-XH
cụ thể [15].
3. Kết quả nghiên cứu mẫu tại các
huyện Hải Hậu và Nghĩa Hưng, tỉnh
Nam Định
Hình 1. Vị trí vùng nghiên cứu nhìn từ vệ tinh
3.1. Điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên
Với các dạng địa hình lục địa tích
tụ (vùng nội đồng) sông biển hỗn hợp có
nguồn gốc khác nhau, Hải Hậu - Nghĩa
Hưng có tiềm năng lợi thế trong phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế
biển, đặc biệt là vùng đất bãi ngập triều
ven biển Nghĩa Hưng có xu hướng bồi
tụ phát triển nhanh với tốc độ lấn biển
300 - 350 m/năm (hàng năm được bồi
khoảng 32 ha), hình thành bãi bồi lớn
tiền đề của vùng đất mới trong tương lai
[16], [17].
Khí hậu khu vực hội tụ những đặc
điểm của khí hậu đặc trưng của đồng
bằng Bắc Bộ và ven biển, chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của khí hậu nhiệt đới
gió mùa; Mùa hạ thời tiết nóng, mưa
nhiều; mùa đông trời lạnh khô và mưa
ít; Lượng mưa hàng năm dao động từ
1.700 - 1.800 mm. Mùa mưa bắt đầu từ
cuối tháng 6 và kết thúc vào tháng 10,
chiếm 82 - 90% lượng mưa cả năm. Mưa
tập trung vào các tháng 7, 8, 9 với gần
80% tổng lượng mưa trong năm. Ngày
có lượng mưa cao nhất lên đến 200 - 250
mm. Mưa lớn thường xuyên gây ra lũ
lụt và ngập úng cho phần lớn các vùng
thấp trũng, làm ảnh hưởng lớn đến sản
xuất nông - diêm - ngư nghiệp. Hàng
năm, lãnh thổ Hải Hậu - Nghĩa Hưng
nhận được một lượng bức xạ phong phú
110 - 120 kcal/cm2/năm, cán cân bức
xạ cao trên 87 kcal/cm2/năm. Hệ thống
sông ngòi và sông nội đồng khá dầy đặc
phân bố đều khắp trên địa bàn theo hình
xương cá kết hợp với các tuyến kênh
mương chính, rất thuận lợi cho việc
chủ động tưới tiêu và giao thông thủ y:
Sông Hồng, sông Sò, sông Ninh Cơ và
sông Đáy đổ ra biển qua các cửa sông:
Ba Lạt, Hà Lạn, Ninh Cơ và cửa Đáy
với mật độ lưới sông vào khoảng 0,6 -
0,9 km/km2, lượng nước trong các con
sông khá phong phú và phân phối tương
đối đều theo không gian. Chỉ tính riêng
sông Ninh Cơ hàng năm chuyển khoảng
7 tỷ m3 nước, 15 triệu tấn phù sa từ
sông Hồng bồi đắp cho vùng biển phía
Tây Nam với tốc độ tiến ra biển khoảng
100 - 120m/năm với quá trình từ 0,4 ÷
1,5 m; đất chủ yếu được hình thành từ
phù sa nên có độ phì khá, đặc biệt là ở
những nơi hằng năm còn được phù sa
bồi đắp; đấ t có thành phần cơ giới từ thịt
nhẹ đến trung bình, khả năng giữ nước
và giữ chất dinh dưỡng tốt, rất thích hợp
cho việc trồng các loại hoa màu, cây
lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày.
Nằm trong vùng quy luật nhật triều
đều của biển phía Bắc biển Ðông, ảnh
hưởng của chế độ thủy triều ở Hải Hậu
- Nghĩa Hưng thể hiện rõ ở sự xâm nhập
mặn và dâng nước ở các khu vực cửa
sông, ven biển tác động vào sâu nội địa
giúp quá trình thau chua, rửa mặn đồng
ruộng [16], [17].
Hải Hậu - Nghĩa Hưng có nguồn tài
nguyên sinh vật biển đa dạng và phong
Nghiên cứu
Tạp chí Khoa học Tài nguyên và Môi trường - Số 15 - năm 201720
phú với các vùng đất ngập nước, bãi