Tiếp cận năng lực thực hiện và đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện

Tóm tắt. Năng lực thực hiện (NLTH) nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Nếu Việt Nam có thị trường lao động dồi dào, chất lượng lao động cao thì sẽ có lợi thế so sánh mang tính cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập. Năng lực thực hiện của người lao động chỉ có được thông qua đào tạo. Thực tế cho thấy đào tạo theo tiếp cận NLTH còn nhiều hạn chế. Qua phân tích về năng lực thực hiện và thực trạng đào tạo nghề, bài báo đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ phát triển nước nhà

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 108 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận năng lực thực hiện và đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0001 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 1, pp. 3-11 This paper is available online at TIẾP CẬN NĂNG LỰC THỰC HIỆN VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC THỰC HIỆN Phạm Thị Thúy Hồng Phòng Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam Tóm tắt. Năng lực thực hiện (NLTH) nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Nếu Việt Nam có thị trường lao động dồi dào, chất lượng lao động cao thì sẽ có lợi thế so sánh mang tính cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập. Năng lực thực hiện của người lao động chỉ có được thông qua đào tạo. Thực tế cho thấy đào tạo theo tiếp cận NLTH còn nhiều hạn chế. Qua phân tích về năng lực thực hiện và thực trạng đào tạo nghề, bài báo đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ phát triển nước nhà Từ khóa: Năng lực thực hiện, tiếp cận năng lực thực hiện, đào tạo theo tiếp cận năng lực thực hiện. 1. Mở đầu Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, vốn và tài nguyên. Đối với Việt Nam, cả hai nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều rất hạn chế nên nguồn lực con người là lợi thế so sánh trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đầu tư phát triển giáo dục và việc làm cho lực lượng lao động trẻ nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có vai trò cốt yếu trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết TW29 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục cũng đã chỉ ra tầm quan trọng của việc hình thành các NLTH cho người học nghề. Trong khi đó, nguồn nhân lực tốt nghiệp tại các cơ sở đào tạo nghề còn chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kĩ năng nghề nghiệp [11]. Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức, đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất. Vì vậy cần nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các cơ sở đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu hình thành NLTH cho người học [9]. Thực hiện đào tạo đào tạo nghề theo hướng hình thành năng lực thực hiện nghề nghiệp cho người học góp phần hình thành năng lực thực hiện nghề nghiệp của nguồn nhân lực trong thời kì hiện đại là cần thiết. Tầm quan trọng về đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH cũng đã được khẳng định là vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục [2] trong đó cần nâng cao năng lực cho người học nghề [10]; kiểm tra, đánh giá theo tiếp cận năng lực thực hiện [6]; quản lí các yếu tố liên quan tới quá trình dạy trong mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp [4]; nâng cao năng lực dạy nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện cho giáo viên [6]. Ngày nhận bài: 5/9/2014. Ngày nhận đăng: 15/2/2015. Liên hệ: Phạm Thị Thúy Hồng, e-mail: hongptt@pcc.edu.vn 3 Phạm Thị Thúy Hồng Đáp ứng yêu cầu này, nhiều công trình nghiên cứu về đào tạo theo NLTH đã được thực hiện và cũng đã cho thấy thực tế đào tạo theo tiếp cận NLTH còn nhiều hạn chế như đội ngũ giáo viên chưa có đủ năng lực để giảng dạy tích hợp lí thuyết và thực hành [6]; ít có sự hợp tác trong đào tạo với đơn vị sử dụng lao động [4]; chưa kiểm tra đánh giá đúng các NLTH [6]. . . và các công trình đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhưng còn mang tính nhỏ lẻ, rời rạc và cần thực hiện nghiên cứu thêm như phát triển năng lực đội ngũ giáo viên, thay đổi quy trình kiểm tra đánh giá, quản lí các yếu tố liên quan tới nhà trường – doanh nghiệp. . . 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Các khái niệm Đào tạo nghề là một quá trình tác động có chủ đích của con người nhằm phát triển tay nghề (đào tạo nghề) và đạo đức, văn hóa nghề nghiệp nhân cách của người lao động, thể hiện trên 3 mặt: Kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp, phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và phát triển nguồn lực quốc gia. Sự phân bổ thời lượng kiến thức tập chung chủ yếu vào thực hành tay nghề là đặc điểm của đào tạo nghề [5]. Năng lực thực hiện (NLTH) là kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết, được kết hợp nhuần nhuyễn, không tách rời để thực hiện được các nhiệm vụ, công việc cụ thể của một nghề theo chuẩn đặt ra, trong những điều kiện nhất định Cấu trúc của NLTH gồm: kiến thức, kĩ năng, thái độ trong đó: - Khả năng hiểu biết chuyên môn về lĩnh vực công việc (Knowledge) - Kiến thức. - Khả năng sử dụng các công cụ lao động để tạo ra thành phẩm theo các tiêu chuẩn kĩ thuật quy định (Skill) - Kĩ năng. - Ý thức công việc, tinh thần trách nhiệm, ý thức hợp tác trong sự liên đới xung quanh (Atittute) - Thái độ. Hình 1.1. Cấu trúc năng lực thực hiện Tiêu chuẩn năng lực thực hiện trong đào tạo nghề là một tập hợp các quy định về các công việc cần làm và chuẩn mực cần đạt được trong thực hiện các công việc đó lại cơ sở sản xuất tương ứng với các trình độ của nghề. Tiếp cận năng lực thực hiện trong đào tạo nghề: Trong phạm vi nghiên cứu này, cụm từ “tiếp cận năng lực thực hiện trong đào tạo nghề” được hiểu là quá trình thực hiện đào tạo nghề theo hướng đảm bảo mục tiêu (hay còn gọi là đảm bảo tiêu chuẩn đầu ra) trong đó mục tiêu đào tạo nghề được xây dựng căn cứ vào các tiêu chuẩn đầu ra, các yêu cầu về năng lực thực hiện của người lao động đối với mỗi nghề. 4 Tiếp cận năng lực thực hiện và đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện 2.2. Đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện Khi bàn về đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện (NLTH) có nhiều quan niệm khác nhau, song cùng thống nhất rằng đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH là phương thức đào tạo dựa vào các NLTH, coi NLTH là cốt lõi xuyên xuốt là căn cứ để khởi đầu và cũng là mục tiêu cuối cùng quá trình đào tạo. Mục đích của đào tạo theo tiếp cận NLTH là phát triển một lực lượng lao động có năng lực bao gồm các cá nhân có thể thực hiện hoạt động lao động một cách ổn định, phù hợp và sáng tạo. Đào tạo theo tiếp cận năng lực thực hiện gắn rất chặt chẽ với yêu cầu của doanh nghiệp sử dụng lao động. Điểm khác biệt của đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện so với đào tạo nghề truyền thống là việc định hướng đầu ra, dạy và học các năng lực thực hiện, đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện, đánh giá năng lực thực hiện, tổ chức quản lí theo năng lực thực hiện. - Định hướng đầu ra: Đào tạo nghề dựa trên năng lực thực hiện có định hướng và chú trọng vào kết quả, đầu ra của quá trình đào tạo. Đào tạo dựa trên năng lực thực hiện quan tâm đến từng người học có thể làm được việc gì đó trong một tình huống nghề nghiệp nhất định theo tiêu chuẩn đề ra. Trong đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH, một người được xem là có NLTH khi họ thực hiện được việc gì đó (liên quan tới nội dung chương trình dạy học) và có thể làm được những việc đó tốt như thế nào? (liên quan tới việc đánh giá kết quả học tập của người học). - Chương trình dạy học được xây dựng trên kết quả phân tích nghề. Trong quá trình xây dựng chương trình đào tạo, để xác định được các NLTH của người hành nghề, người xây dựng chương trình phải tiến hành phân tích nghề (occupational analysis). Phân tích nghề thực chất là xác định mô hình hoạt động của người hành nghề, cụ thể là xác định các nhiệm vụ (duties), công việc (tasks) mà người hành nghề phải thực hiện trong quá trình lao động nghề nghiệp. Có nhiều phương pháp và kĩ thuật khác nhau để phân tích nghề trong đó phương pháp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là DACUM (Develop A Curriculum). Kết quả của quá trình phân tích nghề là sơ đồ DACUM (DACUM Chart), một sơ đồ biểu diễn hệ thống các nhiệm vụ và công việc của người hành nghề tại vị trí việc làm. Sơ đồ này là căn cứ xác định các NLTH của người hành nghề để đưa vào chương trình đào tạo. Sơ đồ DACUM được trình bày trên cơ sở phân tích nghề với cấu trúc thể hiện nội dung các nhiệm vụ lao động và các công việc của mỗi nhiệm vụ cho một nghề tương ứng với bậc đào tạo xác định. Hình thức của sơ đồ DACUM như sau: NHIỆM VỤ A CÔNG VIỆC A1 CÔNG VIỆC A2 CÔNG VIỆC A3 NHIỆM VỤ B CÔNG VIỆC B1 CÔNG VIỆC B2 CÔNG VIỆC B3 NHIỆM VỤ C CÔNG VIỆC C1 CÔNG VIỆC C2 NHIỆM VỤ D CÔNG VIỆC D1 CÔNG VIỆC D2 NHIỆM VỤ E CÔNG VIỆC E1 CÔNG VIỆC E2 CÔNG VIỆC E3 Hình 1. Mẫu cấu trúc sơ đồ DACUM Cùng với sơ đồ DACUM là Bảng phân tích công việc. Nội dung của bảng này thể hiện các kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết để thực hiện được công việc đã nêu trong sơ đồ DACUM cũng như điều kiện và tiêu chuẩn thực hiện của từng công việc ấy. 5 Phạm Thị Thúy Hồng PHÂN TÍCH CÔNG VIỆC Nhiệm vụ: ....................................... Bước Tiêu chuẩn thực hiện Dụng cụ, thiết bị, vật liệu Quyết định cách xử lí, sai hỏng An toàn Thái độ Kiến thức 1. ... ... ... ... ... Khái niệm 1 2. ... ... ... ... ... Khái niệm 2 3. ↓ Hình 2. Bảng phân tích công việc một nghề - Tổ chức đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH: phải được thiết kế và thực hiện sao cho người học hoàn thành chương trình học tập sau khi đã thông thạo tất cả các NLTH được xác định trong chương trình, không phụ thuộc vào thời lượng (số giờ hay tiết học; người học có thể học theo khả năng và nhịp độ của riêng mình và không phụ thuộc vào người khác. người học được phép chuyển tiếp hoặc ra khỏi chương trình mà không cần học lại những NLTHmà họ đã thông thạo, được công nhận và tích luỹ bằng các module. - Đánh giá và xác nhận các NLTH: Đánh giá kết quả học tập là một quá trình đo lường, thu thập chứng cứ và đưa ra những phán xét về một hoặc một số NLTH đã đạt được hay chưa ở người học tại một thời điểm nhất định theo những yêu cầu thực hiện đã xác định trong mục tiêu, chương trình dạy học. 2.3. Thực trạng đào tạo nghề 2.3.1. Sơ lược về đào tạo nghề Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực. Quy mô đào tạo nghề cũng tăng nhanh (Số lượt người nộp hồ sơ học nghề trong năm nay là 1860 nghìn lượt người, tăng 6,4% so với năm trước) [tỉ lệ hóa giá, tổng cục dân số]; nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 26%. Mạng lưới cơ sở đào tạo nghề tăng nhanh và phát triển rộng khắp trên cả nước (có 285 trường trung cấp nghề, 169 trường cao đẳng nghề và trên 1100 trung tâm đào tạo nghề) [7]. Các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo nghề (đội ngũ người dạy, cán bộ quản lí đào tạo nghề, chương trình đào tạo nghề, trang thiết bị đào tạo nghề...) được cải thiện, do đó chất lượng người học học nghề cũng được nâng lên. Nếu xem xét toàn bộ hệ thống đào tạo nghề với các cấp trình độ khác nhau thì khoảng 70% số người học tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề tỉ lệ này đạt trên 90%. Tuy nhiên, sự mất cân đối cục bộ về cung cầu lao động vẫn tiếp tục tồn tại, đặc biệt trong đó chứa đựng nghịch lí thiếu lao động có tay nghề trong khi tỉ lệ lao động qua đào tạo lại thất nghiệp cao (trong số người thất nghiệp năm 2013 thì lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 27,4%). Theo kết quả điều tra lao động - việc làm của Tổng Cục Thống kê, lực lượng lao động năm 2013 là 53,69 triệu người, tăng 1,71% so với cùng kì năm 2012; cả nước có 900 ngàn người thất nghiệp (chiếm 1,9% lực lượng lao động), tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 15-24 là 5,95%. Tỉ trọng lao động đã qua đào tạo ở nước ta còn thấp, có 25,45 triệu lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Hiện cả nước ước có khoảng 52,4 triệu người có việc làm, tăng 1,36% so với năm 2012, lao động vẫn làm việc chủ yếu trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (46,9%) (Nguồn: Số liệu báo cáo năm 2013 của Tổng cục thống kê, 2013). 6 Tiếp cận năng lực thực hiện và đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện Nguyên nhân lớn nhất của vấn đề này là chất lượng đào tạo lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động. Chính vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội lấy việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề là một mục tiêu cơ bản trong quá trình đổi mới và phát triển đào tạo nghề giai đoạn 2010 – 2020 trong đó lấy việc tăng cường năng lực cho người lao động làm chủ đạo. 2.3.2. Thực trạng năng lực của nguồn nhân lực Kết quả phân tích thực trạng nguồn nhân lực và thực trạng đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH được tác giả trích lục từ luận án tiến sĩ quản lí giáo dục về Quản lí đào tạo nghề trong các trường cao đẳng nghề theo tiếp cận NLTH như sau: Qua thăm dò ý kiến các chuyên gia và cán bộ doanh nghiệp nơi sử dụng nhân lực tốt nghiệp cao đẳng nghề về thực trạng năng lực của nhân lực trình độ cao đẳng nghề cho thấy nhận xét về năng lực nhân lực trình độ CĐN có NLTH nghề nghiệp ở mức trung bình khá. Điều này cho thấy hiệu quả mang lại từ sự đầu tư về nguồn lực ở những năm qua tại các trường CĐN. Tuy nhiên, Chúng ta có thể nhận thấy một số đánh giá về NL của nhân lực trình độ CĐN như sau: Kĩ năng thực hành được đánh giá ở mức TB đạt tới 51,7% ý kiến, mức dưới trung bình đạt tới 21% và ý kiến mức khá giỏi không cao chỉ đạt có 17,3%; phần kiến thức chuyên môn của nhân lực đạt mức độ khá cao 50,1% ý kiến đánh giá, mức TB đạt 33,7%; khả năng thích ứng với sự thay đổi công nghệ của nhân lực cũng tương đối tốt 51,1%. Biểu đồ 1: Đánh giá năng lực của nhân lực trình độ CĐN Kết quả thực trạng cho thấy cần tăng cường bồi dưỡng kĩ năng thực hành cho người học, tăng cường kĩ năng làm việc nhóm và giữ gìn ý thức đạo đức nghề nghiệp Tỉ lệ đạt TB khi đánh giá kết quả rèn luyện và học tạp của người học tương đối cao, tỉ lệ khá giỏi thấp hơn vì vậy các Trường cũng nên quan tâm hơn đến quản lí hoạt động học tập và rèn luyện của người học. Kết quả đánh giá về năng lực nguồn nhân lực đã cho thấy một số điểm khiếm khuyết trong đào tạo nhân lực tại các trường, bên cạnh đó các đánh giá về học tập và xếp loại của học viên, đánh giá về chất lượng đào tạo cho thấy cần tăng cường giáo dục các kĩ năng mềm cho người học như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lập kế hoạch công việc, kĩ năng kiểm tra giám sát, kĩ năng tự đánh giá, kĩ năng làm việc nhóm, văn hóa doanh nghiệp. . . Điều này phản ánh đúng thực tế chất lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp ở các trường CĐN vẫn mang tính hình thức. 7 Phạm Thị Thúy Hồng Biểu đồ 2: Xếp loại học tập và rèn luyện của sinh viên CĐN (%) Biều đồ 3: Đánh giá về chất lượng ĐTN trình độ CĐN Thực trạng đào tạo Mục tiêu đào tạo của hầu hết các trường Cao đẳng nghề được xây dựng trên cơ sở định hướng đầu ra. Các tiêu chuẩn nghề nghiệp được cụ thể hóa trong mỗi chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo nghề tại các trường CĐN được cấu tạo gồm: chương trình khung và chương trình chi tiết. Chương trình khung do cơ quan chủ quản (Bộ LĐTB&XH) trực tiếp quản lí, xây dựng và ban hành. Các cơ sở đào tạo nghề dựa theo các chương trình khung đã ban hành để xây dựng chương trình cụ thể cho cơ sở đào tạo của mình; Mỗi đơn vị kiến thức (module) trong cấu tạo chương trình đều được thiết kế tập trung vào hình thành NLTH cho người học gồm: kiến thức, kĩ năng, trong khi đó thái độ của người học khó đo lường nên trong cấu tạo chương trình chi tiết module/ môn học cũng bị hạn chế và thực tế giảng dạy cũng không phát huy hết một trong những thành phần quan trọng góp phần tạo nên cấu trúc năng lực thực hiện này. Hình thức đào tạo: Trong đào tạo nghề nhằm hình thành năng lực thực hiện nghề nghiệp cho người học đóng vai trò quan trọng bởi trong hình thức tổ chức đào tạo tại các cơ sở dạy nghề nói chung tương đối phong phú nhưng còn một số trường chưa coi trọng các hình thức đào tạo theo 8 Tiếp cận năng lực thực hiện và đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện tiếp cận NLTH như huấn luyện kĩ năng, phát triển năng lực quản trị, lớp cạnh xí nghiệp. . . do đó cũng ảnh hưởng tương đối nhiều tới việc hình thành NLTH cho người học. Biểu đồ 4: Y kiến đánh giá về thực hiện đào tạo theo TC NLTH Việc kiểm tra, đánh giá các NLTH - Việc sử dụng các tiêu chí trong đánh giá kết quả học tập của người học Do chương trình được xây dựng của các trường CĐN không hoàn toàn dựa trên kết quả của phân tích nghề nên nhiều chương trình chưa có hệ thống tiêu chí NLTH cụ thể vì vậy việc đánh giá kết quả học tập của người học hiện nay vẫn dựa trên mục đích, yêu cầu của bài học, môn học. Vì vậy, có thể cùng một sản phẩm hoặc một thao tác nghề nghiệp sẽ có những đánh giá khác nhau ở các người dạy khác nhau. Thực trạng này dẫn đến kết quả đánh giá không nhất quán, không khẳng định được NLTH của người học đã đạt khi có nhiều ý kiến khác nhau. - Các nội dung đánh giá kết quả học tập của người học: Như đã đề cập ở trên, do chưa có tiêu chí NLTH của GVDN được thiết lập dựa trên nhu cầu thực tế nên khi đánh giá các sản phẩm, các tiêu chí thành phần hoặc thành phẩm cũng như các yếu tố cần thiết đảm bảo về an toàn, năng suất, thái độ, sự phối hợp rất ít được quan tâm đánh giá, chưa kể đến tính sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Đây cũng được coi là sự bất cập của đào tạo nghề khi mà trong thực tế đào tạo nghề hiện nay, việc đảm bảo chất lượng sản phẩm theo các tiêu chí được đặc biệt coi trọng, do đó nội dung đánh giá phải bao quát nhiều phương diện của sự thực hiện. - Phương pháp KTĐG kết quả học tập: Phương pháp đánh giá của người dạy cũng đã theo hướng tích cực tuy nhiên phần lớn người dạy vẫn đánh giá theo kinh nghiệm chủ quan, định tính, và do đó, nếu đưa ra số đông người dạy thảo luận về mức độ sự thực hiện cũng rất khó đạt được sự nhất trí. 2.4. Một số đề xuất - Thực hiện việc phân tích nghề nghiêm ngặt: Đối với chương trình đào tạo nghề nói chung đặc biệt đào tạo nghề theo tiếp cận năng lực thực hiện thì việc tiến hành phân tích nghề đóng vai trò quan trọng. Trong quá trình xây dựng chương trình đào tạo, để xác định được các NLTH của người hành nghề, người xây dựng chương trình phải tiến hành phân tích nghề. Phân tích nghề thực chất là xác định mô hình hoạt động của người hành nghề, cụ thể là xác định các nhiệm vụ (duties), công việc (tasks) mà người hành nghề phải thực hiện trong quá trình lao động nghề nghiệp từ đó đưa ra mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo phù hợp. 9 Phạm Thị Thúy Hồng - Thực hiện việc kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo theo tiêu chuẩn đầu ra: Lấy tiêu chuẩn đầu ra của người lao động về kiến thức, kĩ năng, thái độ làm tiêu chuẩn xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực thực hiện của người học từ đó mới có thể điều chỉnh hoạt động dạy nghề phù hợp đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực. - Bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hành cho đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học tích hợp trong đào tạo nghề: Trong đào tạo nghề giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành năng lực thực hiện cho người học, phương pháp giang dạy tích hợp trong đào tạo nghề đòi hỏi người giáo viên phải vững kiến thức chuyên môn và kĩ năng thực hành tay nghề để có thể vừa truyền đạt lí thuyết vừa thao tác mẫu trong khu truyền đạt kiến thức cho người học. - Kiện toàn hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo theo tiếp cận NLTH: Với chương trình đào tạo nghề được xây dựng trên cơ sở phân tích nghề DACUM và thiết kế dưới dạng module với các đơn nguyên kiến thức trọn vẹn gồm xác định rõ các nhiệm vụ, công việc cụ thể bao gồm cả kiến thức lí thuyết và kiến thức thực hành. Để thực hiện các module môn học đó đòi hỏi phải có tra ng thiết bị, vật tư, vật liệu phục vụ dạy và học do đó để đào tạo nghề theo tiếp cận NLTH thì một hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị được trang bị đầy đủ đáp ứng yêu cầu giảng dạy là điều kiện bắt buộc. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, đáp ứng yêu cầu giảng dạy sẽ góp phần hình thành các NLTH cho người học. 3. Kết luận Đối với đào tạo nghề, việc đào tạo theo tiếp cận đầu ra nhằm hình thành các NLTH cho người học (đào tạo nghê theo tiếp cận NLTH) là hết sức cần thiết. Mục tiêu đào tạo được xây dựng theo định hướng đầu ra, nội dung chương trình đào tạo được xây dựng trên cơ sở thực hiện phân tích nghề nghiêm ngặt, quá trình đào tạo được giám sát chặt chẽ và các tiêu chuẩn NLTH của người lao động được sử dụng làm tiêu chí đánh giá kết quả đào tạo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy năng lực thực hiện của người lao động chưa được đánh giá cao, kết quả đào tạo còn nhiều hạn chế vì vậy cần thiết phải thực hiện một số điều chỉnh n
Tài liệu liên quan