Cá ở dưới nước.
Chim bay ở trên trời
Chúng ta sống ở vùng cao…
Đó là người Hmông ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang tự kể về nơi cư trú của mình. Là một trong các tộc người thiểu số có dân số đông đủ cư trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, địa bàn cư trú của người Hmông chủ yếu ở vùng cao. Thường là những sườn núi có độ cao trung bình từ 800m - 1700m so với mực nước biển, địa hình hiêm trở, vách đá dựng đứng. Và do đó, kinh tế trồng trọt trên nương rẫy là hoạt động kinh tế chính của họ.
Trong điều kiện môi trường cảnh quan đó, người Hmông đã cần cù lao động sáng tạo, thích ứng với các điều kiện tự nhiên tạo dựng cuộc sống với không ít những khó khăn quyết liệt mà cao nguyên Đồng Văn là một ví dụ. Tại đây người Hmông chiếm tới gần 90% dân số (đại bộ phận là người Hmông trắng). Địa bàn cư trú chủ yếu là vùng cao núi đá, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt. Ở đây trong năm có một mùa mưa và một mùa khô rõ rệt, mà trong mùa khô lượng mưa rất thấp hạơc không mưa dẫn đến thiêu nước trầm trọng. Đúng như người Hmông nhận xét, đây là nơi con người: “sống trong đá, chết vùi trong đá”. Điều này mang những đặctrưng chung cho toàn bộ 4 huyện vùng cao ở Hà Giang là Quản Bạ. Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc.
- Môi trường cảnh quan, các hoạt động kinh tế, văn hoá của người Hmông ở đây có nhiều điểm tương đồng với người Hmông ở huyện Đồng Văn nói riêng, tỉnh Hà Giang và cộng đồng người Hmông nói chung.
Mặc dù vậy, từ trung tâm xã đến các thôn bản, phương tiện đi lại chủ yếu vẫn là đi bộ, một vài điểm có thể đi ngựa nhưng không thuận lợi do địa hình đá dốc và sắc.
7 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2463 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Các dân tộc hệ ngôn ngữ mông-Dao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
CHUYÊN ĐỀ: CÁC DÂN TỘC HỆ NGÔN NGỮ MÔNG-DAO
TIỂU LUẬN
LỄ HỘI CÁC DÂN TỘC MÔNG-DAO
LỜI NÓI ĐẦU
Cá ở dưới nước.
Chim bay ở trên trời
Chúng ta sống ở vùng cao…
Đó là người Hmông ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang tự kể về nơi cư trú của mình. Là một trong các tộc người thiểu số có dân số đông đủ cư trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, địa bàn cư trú của người Hmông chủ yếu ở vùng cao. Thường là những sườn núi có độ cao trung bình từ 800m - 1700m so với mực nước biển, địa hình hiêm trở, vách đá dựng đứng. Và do đó, kinh tế trồng trọt trên nương rẫy là hoạt động kinh tế chính của họ.
Trong điều kiện môi trường cảnh quan đó, người Hmông đã cần cù lao động sáng tạo, thích ứng với các điều kiện tự nhiên tạo dựng cuộc sống với không ít những khó khăn quyết liệt mà cao nguyên Đồng Văn là một ví dụ. Tại đây người Hmông chiếm tới gần 90% dân số (đại bộ phận là người Hmông trắng). Địa bàn cư trú chủ yếu là vùng cao núi đá, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt. Ở đây trong năm có một mùa mưa và một mùa khô rõ rệt, mà trong mùa khô lượng mưa rất thấp hạơc không mưa dẫn đến thiêu nước trầm trọng. Đúng như người Hmông nhận xét, đây là nơi con người: “sống trong đá, chết vùi trong đá”. Điều này mang những đặctrưng chung cho toàn bộ 4 huyện vùng cao ở Hà Giang là Quản Bạ. Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc.
- Môi trường cảnh quan, các hoạt động kinh tế, văn hoá của người Hmông ở đây có nhiều điểm tương đồng với người Hmông ở huyện Đồng Văn nói riêng, tỉnh Hà Giang và cộng đồng người Hmông nói chung.
Mặc dù vậy, từ trung tâm xã đến các thôn bản, phương tiện đi lại chủ yếu vẫn là đi bộ, một vài điểm có thể đi ngựa nhưng không thuận lợi do địa hình đá dốc và sắc.
Toàn bộ người Hmông ở đây thuộc nhóm Hmông trắng, nguyên là cư dân sinh sống ở vùng nam Trung Quốc và di cư vào Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XVII.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của người Hmông ở khu vực này chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Do các đặc điểm địa lý tự nhiên ở vùng cao núi đá, nguồn lương thực chính của họ là hoạt động kinh tế nương rẫy theo phương thức “Thổ canh hốc đá”. Cây trông quan trọng nhất là ngô, một số loại cây lấy củ, quả hạt, hạt như khoai lang, tam giác mạnh, dong riềng, rau đậu các loại. Ngoài ra đồng bào còn tận dụng những mảnh đất nhỏ trên nương hoặc xuang quanh nhà để trồng lanh làm nguyên liệu để dệt vải, giải quyết nhu cầu mặc.
Có thể nói, sản xuất nương rẫy đòi hỏi nhiều công sức, làm lụng vất vả, cường độ lao động trên nương kéo dài.
Ngoài trồng trọt, người Hmông ở đây rất chú trọng chăn nuôi gia súc, nhất là dê, bò, ngựa, lơn và nuôi ong.
Điều khác biệt trong hoạt động chăn nuôi của người Hmông ở đây là do địa hình núi đá dốc nên không thể chăn thả gia súc mà phải nuôi nhốt chuồng và cung cấp thức ăn. Có thể thấy chăn nuôi là hoạt động kinh tế đóng vai trò quan trọng trong đời sống của họ.
Ngoài sản xuất nông nghiệp, người Hmông còn có một số hoạt động thủ công nghiệp sản xuất các đồ gia dụng và công cụ sản xuất đặc biệt là làm sợi lanh và dệt vải. Vải lanh dùng may trang phục, làm mặt chăn, địu v.v… Theo quan niệm của đồng bào, khi chết phải có áo ngoài bằng lanh thì mới đoàn tụ được với tổ tiên. Đây là hoạt động thường xuyên, liên tục của người phụ nữ Hmông từ lúc thiếu nữ cho đến lúc về già. Hiện nay do thị trường vải Trung Quốc khá phong phú cho nên người Hmông ít sử dụng vải lanh mặc trong sinh hoạt hàng ngày. Gần đây do nhu cầu trực tiếp ở địa phương và tác động của cơ chế thị trường, hai hộ gia đình đã mua máy nghiền đậu, ngô Giống như ở nhiều vùng cao phía Bắc, việc trao đổi hàng hoá chủ yếu diễn ra trong các chợ phiên. Chợ họp 6 ngày 1 lần (hiện nay có chợ hợp 7 ngày/lần vào Chủ nhật).
Chợ không những là nơi mua bán những thứ thiết yếu mà còn là nơi gặp gỡ, tâm tình, từ Sảng Tủng có thể đi các chợ Xà Phìn, Phố Bảng, Lũng Phìn. Nếu tính từ trung tâm thị xã chợ Xà Phìn là gần nhất (12 km). Thông thường, người Hmông đi chợ theo gia đình từ sáng sớm cho đến chiều tối. Đi chợ còn gắn liền với nhu cầu vui chơi, giải trí, giao tiếp.
Theo tập quán, đồng bào ăn ngày 3 bữa (trừ những ngày không lên nương). Cơ cấu bữa ăn bao gồm bột ngô đồ (mèn mén) rau xào mỡ và canh rau có mỡ.
Trong một năm, người Hmông có nhiều ngày lễ tết, trong đó có 2 tết lớn là tết năm mới (thường vào đầu tháng 12 âm lịch và là tháng đầu năm theo lịch Hmông) và tết mùng 5 tháng 5.
Theo truyền thống, người Hmông ở nhà trệt (nhà đất), lợp tranh, nhà thấp và tối. Mỗi nhà thường mở 2 - 3 cửa. Mọi người trong nhà, nhất là phụ nữ thường đi lại hàng ngày chủ yếu qua cửa phụ. Nhà ở cũng là nơi để lương thực, ngô được xếp trên gác của gian bếp. Chuông nuôi gia súc thường làm sát cạnh nhà.
Gia đình người Hmông là tiểu gia đình phụ quyền. Người con gái khi về nhà chống được coi là thuộc hoàn toàn gia đình chồng. Nếu muốn về thăm bố mẹ đẻ phải được nhà chồng đồng ý và bao giờ cũng phải có chồng đi cùng mới được coi là hợp phong tục.
Trong đời sống của người Hmông, con trai được quý trọng hơn con gái. Người đàn ông thay mặt cho gia đình trong các công việc làng xóm, giải quyết các công việc trong gia đình theo phong tục. Vì vậy trong các hoạt động mang tính cộng đồng, vai trò người phụ nữ rất hạn chế.
Cho đến hiện nay, một số nghi lễ trong gia đình và tín ngưỡng dân gian vẫn còn tác động không nhỏ trong đời sống như: sinh đẻ, cưới xin, ma chay, các nghi lễ liên quan đến sản xuất, các quan niệm về linh hồn v.v…
Do những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, văn hoá đã có những ảnh hưởng to lớn tới hiện trạng kinh tế-xã hội ở vùng người Hmông ở xã Sảng Tủng nói chung và huyện Đồng Văn nói riêng.
Những phụ nữ Hmông Hầu hết phụ nữ đều mù chữ và mù tiếng phổ thông.
Đa số phụ nữ khi chửa không đi khám thai. Lúc mang thai không tính được thời gian sinh. Khi sinh không biết cân nặng của con, chỉ ước chừng, không biết cụ thể. Trẻ em hay bị bệnh đi ngoaì, Sốt, đau đầu. Lúc bị bệnh, cho các cháu uống thuốc từ lá cây.
Do điều kiện môi trường cảnh quan ở vùng cao, đời sống văn hoá-xã hội ở đây đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến các tầng lớp phụ nữ và trẻ em nói riêng và nhân dân địa phương nói chung.
Có thể thấy đời sống tinh thần của họ rất thấp kém. Hầu như ít khi họ được xem phim, biểu diễn nghệ thuật hay đọc sách báo.
Trong xã hội, phụ nữ phải làm việc vất vả, rất thiệt thòi, suốt ngày đi làm không có thời gian chăm sóc cho mình” (Nữ, 30 tuổi, mù chữ, 3 con), nhưng họ cũng rất thích tham gia các phong tục tập quán lễ hội của dân tộc Hmông.
Phong tục lễ hội:
Tập tục hát bè hát đối, ném còn cũng diễn ra rất tự nhiên và mầu sắc cũng rất tự nhiên đa dạng, phong phú mang đậm bản sắc văn hoá vùng cao.
Qua các trò chơi các đội trai gái có thời gian ngắn nhìn nhau, họ ngầm trao cho nhau ánh mắt, nụ cười, trao cho nhau lời ca tiếng hát câu ví họ tỏ tình với nhau. Họ hỏi nhau về gia đình, bạn bè, người thân về công việc làm nương, làm rẫy có nhiều không có rộng không, có nhiều trâu, bò, ngựa, lợn, gà không v.v…
Cũng qua lời hát câu ví, tung còn trao duyên người đàn ông, người Hmông tỏ tình với người con gái mình yêu, nếu được người con gái ngầm đồng ý thì hai người tình tứ tách dần ra khỏi nhóm, lúc này người đàn ông tỏ ra mạnh dạn hơn hình thức tỏ tình theo chiều hướng gần gũi mang tính lãng mạn tình tứ yêu thương, người đàn ông chủ động tuếo câbh cần tay, bá vai thủ thì bên tai người con gái nội dung thật giản dị mộc mạc;
“Tao đã quen mày từ mấy vụ rẫy trước rồi, mày có đôi mắt đẹp lắm, đôi mong mỏng hồng như trái mận, kuôn mặt mày tươi như trái đào non.
Lấy tao đi nhà tao lương ngô rộng, nhiều trâu, nhiều bò, ngựa, lợn, gà v.v… lấy tao mày làm quanh năm không lo hết việc đến hội chứng mình thoả mái đi chơi hội v.v…”
Hàng trăm đôi trai gái tay cầm tay, vai kề vai, họ ngầm hẹn ước với nhau để đến đêm khuya vào lúc gần sáng tục cướp vợ của người Hmông diễn ra rất sôi động.
Người đàn ông có thể vác người yêu của mình để lên lưng ngựa để dắt về, có thể tập trung bạn bè quay tròn người yêu mình lại dồn về phía nơi tụ tập của họ hàng nhà mình. Người con gái sẽ được đưa về nhà trai khoảng 3 ngày 3 đêm nếu người con gái thuận tình thì nhà trai tổ chức họ hàng mang lễ vật sang nhà gái xin cưới hỏi người con gái về làm vợ. Còn người con gái không thuận thì sẽ được tha về nhà mình.
Tục cướp vợ diễn ra rất phong phú:
- Sau khi đôi trai gái gặp gỡ nhau qua ánh mắt, cử chi, thường chủ động là người bạn trai tiếp cận người con gái với cử chỉ rất tự nhiên như cầm tay, kéo tay, bá vai theo phản xạ người con gái giãn ra, lùi ra, người con trai tiến tới nắm chặt tay người con gái, nếu người con gái ứng bụng thì không gỡ tay vùng chạy, nếu không đồng ý thì cương quyết gỡ tay vùng chạy.
Với lời nói thường cũng là người đàn ông chủ động: “Mày khoẻ không, trông mày tao ưng cái bụng lắm, tạo với mày đã quen nhau từ cái tết độc lập năm ngoái, bố mẹ mày có khoẻ không, mày có nhiều anh em không, nhà mày nhêìu trâu bò, lợn, gà, nương rẫy, nhà mày rộng không, một con giao quăng hay hai con dao quăng v.v…
Mày ưng tao, tao sai bạn bè bắt mày về sau ba ngày nếu mày thấy gạo, ngô, sắn, thịt cá nhà tạo ngon thì bố mẹ họ hàng nhà tao xin với già bản trưởng làng tổ chức xính lễ sang nhà mày xin cưới hỏi mày về, sống mày làm vợ hầu hạ bố mẹ tao chết mày làm ma nhà tao…
Nếu sau ba ngày mày thấy cơm nhà tao không ngon, nương nhà tao đắng, chê thịt nhà tao ôi thì tao sẽ trả mày về”.
Qua đi sâu tìm hiểu nhiều cặp vợ chồng người Hmông thì họ thường lấy nhau từ rất sớm và có con từ rất sớm, lại đẻ rất dầy như qua tìm hiểu
Một trong những giá trị nổi bật của Lễ hội các dân tộc thiểu số người Hmông là những giá trị văn hoá bản địa của nhân dân về quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên về văn hoá các dân tộc. Phản ánh các mối quan hệ con người với con người, nhưng lại thông qua các lễ hội văn hoá, quã các dịp giao lưu văn hoá văn nghệ, các món ăn truyền thống của các dân tộc để thể hiện tình đoàn kết thân ái giữa các dân tộc, Qua các phong tục tập quán, qua ngôn ngữ giao giếp giữa các dân tộc, thông qua các môi trường thiên nhiên do vậy chúng ta có cảm giác như là thiên nhiên đã được “nhân hoá”, con người và tự nhiên gắn bó hữu cơ với nhau giữa con người là một bộ phận không thể tách rơi của tự nhiên. Đây là nét độc đáo của quan niệm vũ trụ quan, của tư duy và lối sống của con người các dân tộc thiểu số.
Trong điều kiện hiện nay, xã hội các dân tộc người Hmông đã và đang có nhiều biến động lớn, các thiết chế và quan niệm xã hội mới xuất hiện tuy nhiên các lễ hội của các dân tộc thiểu số với những tri thức bản địa về môi trường và các cách thức thể hiện, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên về lễ hội các văn hoá giữa các dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và vẫn giữ nguyên giá trị tích cực của nó.