Hà Nội tháng 12 trời rét như chưa bao giờ từng rét như thế. Tôi cuộn mình trong chiếc chăn ấm và tự cho mình thêm một vài giây phút nữa, cảm nhận cái rét ngọt đầu đông. Mùa đông đến thật nhanh quá. Tôi chưa kịp cảm nhận được trọn cái dịu dàng của tiết trời mùa thu, vậy mà thu đã qua từ bao giờ. Tự nhiên thèm biết bao một ít hương cốm làng Vòng. Sao giờ thấy xa xôi quá. Hà Nội còn đây, và đâu đó vào một buổi sáng mùa đông tôi vẫn thoảng thấy hương vị thơm lừng của bát phở rất đặc trưng Hà Nội, vẫn mùi ốc nóng và những chiếc quẩy xinh làm nao lòng nhiều cô cậu sinh viên sau mỗi giờ tan trường.
… Còn mùa thu Hà Nội, đâu rồi khoảng trời thương nhớ với mùi hoa sữa thơm ngào ngạt và màu cốm xanh như ngọc? Tôi chợt nhớ chợt thương và đâu đó gợi lại câu nói của T. Mac (Anh): “Người ta đi du lịch khắp thế giới mong tìm được những cái mình cần và cuối cùng lại tìm được điều đó ngay trên chính quê hương của mình? Tôi bất giác muốn viết một cái gì đó, để tâm hồn mình được sống lại những cảm xúc ngọt ngào về quê hương mà giữa cuộc sống bề bộn, hối hả, có lúc tôi đã bỏ quên mất, bỏ quên đi hương cốm làng Vòng và mùa thu Hà Nội… Để giờ đây, tôi hối hả đi tìm… “Cốm Làng Vong, bây giờ còn không?”
9 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2074 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cốm làng Vòng bây giờ còn không, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA DU LỊCH HỌC
---------------
Tiểu luận
Cốm làng vòng bây giờ còn không?
PHẦN MỞ ĐẦU
Hà Nội tháng 12 trời rét như chưa bao giờ từng rét như thế. Tôi cuộn mình trong chiếc chăn ấm và tự cho mình thêm một vài giây phút nữa, cảm nhận cái rét ngọt đầu đông. Mùa đông đến thật nhanh quá. Tôi chưa kịp cảm nhận được trọn cái dịu dàng của tiết trời mùa thu, vậy mà thu đã qua từ bao giờ. Tự nhiên thèm biết bao một ít hương cốm làng Vòng. Sao giờ thấy xa xôi quá. Hà Nội còn đây, và đâu đó vào một buổi sáng mùa đông tôi vẫn thoảng thấy hương vị thơm lừng của bát phở rất đặc trưng Hà Nội, vẫn mùi ốc nóng và những chiếc quẩy xinh làm nao lòng nhiều cô cậu sinh viên sau mỗi giờ tan trường.
… Còn mùa thu Hà Nội, đâu rồi khoảng trời thương nhớ với mùi hoa sữa thơm ngào ngạt và màu cốm xanh như ngọc? Tôi chợt nhớ chợt thương và đâu đó gợi lại câu nói của T. Mac (Anh): “Người ta đi du lịch khắp thế giới mong tìm được những cái mình cần và cuối cùng lại tìm được điều đó ngay trên chính quê hương của mình? Tôi bất giác muốn viết một cái gì đó, để tâm hồn mình được sống lại những cảm xúc ngọt ngào về quê hương mà giữa cuộc sống bề bộn, hối hả, có lúc tôi đã bỏ quên mất, bỏ quên đi hương cốm làng Vòng và mùa thu Hà Nội… Để giờ đây, tôi hối hả đi tìm… “Cốm Làng Vong, bây giờ còn không?”
PHẦN NỘI DUNG
Về Hà Nội, không ai là không nhớ đến một thứ quà ngon, nổi tiếng, thứ quà của lúa non. Cái thứ quà vừa dân dã vừa thanh tao đó có tên gọi là “Cốm Làng Vòng”. Làng Vòng cách trung tâm Hà Nội về phía Tây Bắc độ dăm cây số, gồm có các thôn: Vòng Tiền, Vòng Hậu, Vòng Sờ, Vòng Trung nhưng chỉ có hai thôn Vòng Hậu và Vòng Sờ là làm cốm ngon. Ngày nay Hà Nội được quy hoạch, mở rộng thêm, làng Vòng ngày xưa nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy. Mặc dù vậy, cái tên Làng Vòng vẫn không mất đi trong tâm trí mỗi người dân thủ đô bởi nó đã gắn liền với một đặc sản nổi tiếng: đặc sản “cốm Làng Vòng” Chẳng thế mà dân gian đã có câu:
“Cốm Vòng gạo tám Mễ Trì.
Tương Bần, Húng Láng còn gì ngon hơn”.
Chuyện xưa kể lại rằng, vào khoảng thời nhà Lý (thế kỷ XI), có năm lụt lội, mất mùa khiến người dân đói kém, chỉ kiếm được rau dại ăn qua ngày. Dân làng Vòng ở vùng đất cao phía Tây Kinh thành nên giữ được mấy vạt lúa nếp mới đông sữa, đang uốn câu, bèn cắt cử người trông nom, chờ ngày lúa chín. Có người đói quá, bứt ít nếp non, gom vủi đốt cho chín để cắn chắt. Bông lúa nướng xong ăn thấy dẻo, thơm và ngọt. Sau đó chính người nông dân này đã nghĩ ra cách cho hạt lúa vào rang chín, đem giã bằng cối, loại hết vỏ trấu, nhờ đó gia đình ông và cả làng Vòng qua được nạn đói nhờ ăn nếp non. Những lời đồn đại về một món ăn lạ đến tai triều đình. Khi nhận được lệnh truyền của nhà vua, dân làng đã mang dâng món ăn này, gói trong lá sen. Từ đó dân làng Vòng có nghề cốm, mọi người quen gọi là cốm làng Vòng. Mỗi dịp đầu thu, trong làng lại rộn rã tiếng chày giã cốm. Cốm đem bán khắp kinh thành. Cốm Vòng trở thành miếng ngon của đất Thăng Long, đã đi vào thi ca, nhạc hoạ với mùa thu rực vàng sắc lá. Người ta nhớ Hà Nội là phải nhớ đến Cốm- mà không chỉ nhớ đến Cốm, mà nhớ bết bao nhiều chuyện ấm lòng chung quanh mẹt cốm, bao nhiêu tình cảm xưa cũ hiu hiu buồn, nhưng thắm thiết xiết bao? Vẫn như lòng mình là hương cốm.
“Chả biết tay ai làm lá sen?”
(Nguyễn Sả)
“Hạt cốm xanh như ngọc
Se dần trong lá sen.
Có muốn lắm không em.
Ngày qua không trở lại”.
(Lưu Quang Vũ).
Và chợt đâu đây ngân lên câu hát quen thuộc Hà Nội mùa thu…
“Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ,
Cốm sữa trưa hè thơm bước chân qua…”
Thứ quà mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam ấy mang trong hương vị tất cả sự đảm đang, cần cù và sáng tạo của người dân làm nông nghiệp.
Và cũng như biết bao thứ quà khác, cốm ngày xưa được làm ra với ý nghĩa ban đầu là làm quà sau tết, tặng nhau. Ấy mới có chuyện những chàng rể xưa muốn lấy lòng bố mẹ vợ liền làm cốm đem biếu. Dần dần phát hiện ra thứ quà thanh nhã và tinh khiết ấy rất phù hợp với các việc lễ nghi nên người ta làm cốm để thờ cúng tổ tiên, lễ chùa và dùng trong đám cưới, đám hỏi của người Kinh Bắc. Ngày đó, cốm Vòng được bán khắp các phố, chợ Hà Nội. Cứ mỗi mùa thu đến, lại thấy các bà, các chị làng Vòng quẩy đôi gánh xinh xinh, giắt đầy cây lúa non đã tuốt hạt, đi dọc các phố mà rao “Ai cốm đây”, nghe thật quen thuộc.
Nói về cách thức làm cốm, tất nhiên là rất nhiều vùng quê biết làm nhưng phải thừa nhận rằng không đâu làm được hạt cốm dẻo và thơm ngon như ở làng Vòng. Người làng Vòng làm cốm rất công phu. Đầu tiên họ trồng lúa, đợi đến lúc lúa khum ngọn, hãy còn sữa thì gặt đem về làm cốm. Lúa để làm cốm thì không được vò hay đập mà phải tuốt. Sau đó cho vào nồi rang. Cốm rang xong phải mang giã ngay, không được để nguội. Trong quá trình giã phải có kỹ thuật, không được giã mạnh tay quá cốm sẽ nát. Khi giã phải luôn tay đảo cốm từ trên xuống dưới lên cho đều. Giã xong thì đem cốm đi sáng và hồ, rồi đựng vào lá sen.
Không hiểu sao người ta lại dùng lá sen để đựng cốm? Có lẽ thứ quà tinh khiết ấy phải được gói bằng lá của loài hoa “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” thì mới thấy hết được ý nghĩa của nó. Mặc dù đó chỉ là cách suy luận, song thực tế thì cốm được gói bằng lá sen thơm và ngon hơn khi ta gói bằng một thứ lá khác. Cốm thường được ăn cùng với chuối tiêu trứng quốc nhưng ngon nhất vẫn là ăn với trái hồng chín đỏ và Thạch Lam trong cuốn “Hà Nội 36 phố Phường đã viết: “Cái màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, không gì hoà hợp bằng”.
Thế nhưng hương cốm làng Vòng với trái hồng chín đỏ đã nhạt nhoà theo năm tháng. Đến nay, một trong những nét đẹp văn hoá ẩm thực của người Tràng An đó đã chỉ còn lại trong kí ức. Dân làng Vòng đang đứng trước nguy cơ mất hẳn nghề cốm cổ truyền trước tình trạng đô thị hoá mạnh như hiện nay. Đất làng Vòng xưa kia trồng lúa giờ đã nhường chỗ cho những ngôi nhà cao tầng. Đến Làng Vòng bây giờ dẫu vào mùa Cốm nhưng không gian rất trầm lắng. Tiếng chày giã kia thôi rộn rã, chỉ còn lấp ló trong ngõ hẹp bó rơm nếp xanh phơi khô để bện chổi nằm bên những vách nhà. Chỉ thấy san sát những dãy nhà trọ lợp Phibờrô xi măng còn thơm vùi vôi vữa và rậm rịch những bước chân của sinh viên chứ không còn thấy bóng người quẩy gánh bán cốm.
Hương thơm đồng nội của cốm làng Vòng không còn vấn vít những người khách lạ. Đã có biết bao người vì luyến thương hương cốm làng Vòng mà tìm về xóm nhỏ để mua, để rồi buồn biết bao khi nghe những lời tâm sự thật thà của những người làm cốm. Giờ họ phải bỏ cái nghề đã gắn bó với gia đình, tổ tiên hàng trăm năm để làm một nghề khác kiếm kế sinh nhai. Phải khó khăn lắm mới hỏi thăm được địa chỉ của những gia đình làm cốm ở làng Vòng. Bác Na, ngoài 60 tuổi, người bé nhỏ ngồi nép mình bên vách bếp chật chọi, bác kể: “Tôi theo nghề từ 15 tuổi, từng được thấy những ngày hưng thịnh của nghề. Hơn 80% hộ dân trồng lúa, mua lúa non về làm cốm. Vào mùa cốm cả làng nhộn nhịp tiếng chày, tiếng sàng xảy, tiếng máy tuốt lúa. Đường làng rơm nếp phơi trắng xoá, mùi thơm lan toả cả vùng trời. Người làng bên đua chen về làng mua cốm đi bán khắp phố phường Hà Nội và các tỉnh lân cận. Nhà tôi từ già đến trẻ, 6 - 6 người đều làm cốm với 3- 4 sào ruộng. Vào chính vụ, ruộng nhà cấy không đủ thì sang Đông Anh, Từ liêm mua nếp non về làm, mỗi ngày xuất hơn tạ cốm.
Nay thì ruộng mất, nếp không có để làm cốm, chỉ vì muốn giữ nghề nên gia đình tôi đi mua lúa nếp Tân Diễn, nhưng cũng chỉ đủ 2- 3 người làm và chỉ làm ra được 10 cân cốm là cùng. Có lẽ nghề cốm sẽ chết mất. Tôi già cả không nghề đã đành, nhưng con dâu tôi chỉ biết mỗi nghề cốm, hiện nó đang thất nghiệp”.
Không riêng gì gia đình Bác Na, những hộ khác của làng Vòng cũng bị mất ruộng, không thể trồng lúa nếp, làm nghề và duy trì nghề hàng trăm năm của tổ tiên.
Bác Tạ Duy Sâm, 68 tuổi tâm sự: “Chúng tôi rất muốn giữ nghề và truyền nghề cho con cháu, nhưng còn tuỳ thuộc vào ruộng trồng lúa nếp. Ruộng của phường hết chỉ còn biết trồng vào ruộng thiên hạ. Nếu họ không còn cấy những loại lúa nếp làm cốm thì có lẽ chúng tôi đành để mất nghề”.
Buồn làm sao khi nghe những lời tâm sự như rút ruột lòng mình của những người làm nghề cốm. Cả làng Vòng 600 hộ dân thì nay chỉ còn vẻn vẹn 15 hộ gắn bó với nghề làm cốm. Toàn bộ 80 ha đất canh tác của làng Vòng phải nhường cho việc xây dựng khu đô thị mới Cầu Giấy. Hết đất, bà con chuyển kế sinh nhai, gia đình nào có đất thì xây nhà cho sinh viên các trường Đại học Sư Phạm, Thương mại, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền thuê. Số có diện tích nhà chật chội thì chuyển sang kinh doanh ăn uống, bán hàng phục vụ sinh viên. So với làm cốm, xây nhà cho thuê chỉ phải bỏ vốn một lần và cho thu nhập đều đặn quanh năm. Trong khi làm cốm chỉ diễn ra 4 tháng, thu nhập lại không cao. Trung bình một hộ 5 người làm từ sáng sớm đến tối mịt được khoảng 30 - 40 kg cốm ngon, mỗi người thu được 40.000 đồng/ngày. “Bây giờ phải gọi Vòng là làng sinh viên mới chính xác. Hiện chỉ còn chừng 15 hộ làm cốm, trung bình mỗi hộ làm được 40 - 50 kg/ngày, tức là chỉ đáp ứng nhu cầu của một bộ phận rất nhỏ dân Hà Thành”, ông Cường nói.
Những hộ làm cốm còn lại cũng đang chịu thách thức rất lớn. Trong khi các đặc sản như bưởi Diễn, cam Canh đồng loạt tăng giá, chi phí sản xuất (củi, lúa nếp…) cũng tăng thì hàng chục năm nay cốm làng Vòng vẫn duy trì ở mức 3.000- 5.000đ/lạng. Những người theo nghề chỉ cố gắng làm đủ ăn, không dám mơ đến chuyện làm giàu. Sản phẩm làm ra lại phải cạnh tranh quyết liệt với những loại cốm mượn tiếng làng Vòng.
Một thách thức nữa theo ông Lê Trường Xuân, 64 tuổi, con số 15 hộ làm nghề có thể tiếp tục giảm do phần lớn thanh niên có xu hướng thoát ly, kiếm việc làm khác nhẹ nhàng hơn, thu nhập cao hơn. Làm cốm rất vất vả, trải qua nhiều công đoạn, bắt đầu từ việc mua lúa non về suốt, đãi, rang, giã, sàng xảy phân loại xơ cốm (cốm trong cối hay bị bết nên người ta phải lựa lốc chày nhấc lên thì dùng tay đảo), rất dễ bị chày nện vào tay. Hầu như tất cả người làm nghề đều bị dị tật ở ngón tay cái, ngón trỏ và giữa. Gia đình ông Trường có 4 người con thì chỉ 2 người chịu theo nghề làm cốm, số còn lại đi làm công nhân.
Trước nguy cơ mai một nghề làm cốm, đã có biết bao dự án, nỗ lực của nhiều người còn tâm huyết với nghề cốm được triển khai nhưng xem ra sự cố gắng và nỗ lực đó không hiệu quả.
Dự án của UBND Phường Dịch Vọng nhằm cứu lấy nghề vẫn chỉ nằm trên giấy và ý tưởng “tìm lại hương cốm làng Vòng” của một nhóm sinh viên đạt giải trong cuộc thi ý tưởng sáng tạo vì sự phát triển thủ đô” (12/2005) cũng đã rơi vào quên lãng. Những giải pháp tình thế để cứu vãn nghề đã không trụ vững theo qui luật của thờ gian và tốc độ ồ ạt của quá trình đô thị hoá. Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung đang mất dần đi một đặc sản quí mà có các thế hệ mai sau sẽ chỉ biết danh cốm Vòng qua ca dao chứ không bao giờ được nhâm nhi hạt cốm dẻo thơm với màu xanh non quyến rũ trong lá sen mềm mại nữa. Khách du lịch đến Việt Nam, về Hà Nội cũng chẳng bao giờ được biết đến một món ăn đã làm nao nức bao thế hệ người Tràng An, Hà Nội, mùa thu sẽ thiếu đi cái gì đã một thời từng gắn bó, tô điểm cho nó. Và câu hát “Hà Nội mùa thu… mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa của hè thơm bước chân qua…” Mãi mãi chỉ còn trong hoài niệm.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây ngành du lịch Việt Nam đang có những bước phát triển khả quan, lượng khách quốc tế đến Việt Nam không ngừng tăng.Tính đến năm 2005, cả nước đón hơn 4,3 triệu lượt khách quốc tế.Và cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO và tổ chức thành công hội nghị APEC, con số này ngày càng tăng lên. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, một trong những mục tiêu của Việt Nam đặt ra trong giai đoạn 2006- 2010 là phấn đấu để du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Cụ thể, đến năm 2010 Việt Nam sẽ thu hút 6 triệu lượt khách quốc tế, 23 triệu lượt khách nôị địa,doanh thu xã hội từ du lịch đạt 4- 5 tỷ USD.
Hoà chung với Chương trình hành động quốc gia về du lịch, Hà Nội đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình và đóng góp một phần đáng kể vào sự thu hút du khách chung của cả nước bởi những giá trị văn hoá, tinh thần độc đáo, nét đẹp của thành Thăng Long cổ kính, uy nghiêm bốn ngàn năm lịch sử.Tuy nhiên, những giá trị văn hoá truyền thống xưa cũ đó đã và đang có nguy cơ bị mai một bởi những tác động không mong muốn của ngành du lịch và quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Mà cốm làng Vòng chỉ là một trong những ví dụ được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu. Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận trên dưới mười trang, không thể lột tả hết được thực trạng và mong muốn của tác giả với hy vọng “tìm lại hương Cốm làng Vòng”. Bài viết chắc chắn còn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự chỉ dạy của các thầy, cô giáo và sự đóng góp của các bạn đọc quan tâm.