Đạo đức kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
và cũng là vấn đề gây nhiều hiểu nhằm nhất trong xã hội kinh doanh hiện
nay.
Trong vòng hơn 20 năm vừa qua, đạo đức kinh doanh đã trở thành
một vấn đề thu hút được nhiều quan tâm. Ngày nay, các doanh nghiệp phải
đối mặt với sức ép của người tiêu dùng về các hành vi đạo đức, các quy định
pháp luật cũng được thiết kế khuyến khích các hành vi tốt của doanh nghiệp
- từ hoạt động marketing đến bảo vệ môi trường.
Hoạt động kinh doanh tác động đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống
xã hội, nên nhà kinh doanh cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp và không
thể hoạt động ngoài vòng pháp luật mà chỉ có th ể kinh doanh những gì pháp
luật xã hội không cấm. Phẩm chất đạo đức kinh doanh của nhà doanh
nghiệp là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên uy tín của nhà kinh doanh,
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt được những thành
công trên thương trường, tồn tại và phát triển bền vững.
Việc xây dựng đạo đức kinh doanh, trước hết, là trách nhiệm của
chính các doanh nghiệp; đồng thời, đó cũng là trách nhiệm của nhà nước,
của cộng đồng và toàn xã hội. Xây dựng đạo đức kinh doanh là nhiệm vụ
cần được quan tâm, coi trọng nhằm hình thành động lực thúc đẩy việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
82 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 6505 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đạo đức kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1
Lời mở đầu
Đạo đức kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
và cũng là vấn đề gây nhiều hiểu nhằm nhất trong xã hội kinh doanh hiện
nay.
Trong vòng hơn 20 năm vừa qua, đạo đức kinh doanh đã trở thành
một vấn đề thu hút được nhiều quan tâm. Ngày nay, các doanh nghiệp phải
đối mặt với sức ép của người tiêu dùng về các hành vi đạo đức, các quy định
pháp luật cũng được thiết kế khuyến khích các hành vi tốt của doanh nghiệp
- từ hoạt động marketing đến bảo vệ môi trường.
Hoạt động kinh doanh tác động đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống
xã hội, nên nhà kinh doanh cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp và không
thể hoạt động ngoài vòng pháp luật mà chỉ có thể kinh doanh những gì pháp
luật xã hội không cấm. Phẩm chất đạo đức kinh doanh của nhà doanh
nghiệp là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên uy tín của nhà kinh doanh,
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt được những thành
công trên thương trường, tồn tại và phát triển bền vững.
Việc xây dựng đạo đức kinh doanh, trước hết, là trách nhiệm của
chính các doanh nghiệp; đồng thời, đó cũng là trách nhiệm của nhà nước,
của cộng đồng và toàn xã hội. Xây dựng đạo đức kinh doanh là nhiệm vụ
cần được quan tâm, coi trọng nhằm hình thành động lực thúc đẩy việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Chính vì điều này mà nhóm em chọn đề tài “Đạo đức kinh doanh”.
Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót,mong thầy cô và
các bạn đóng góp để bài làm của nhóm em được hoàn thiện hơn.
Phương pháp nghiên cứu:
Nhận diện các vấn đề đạo đức;
Nghiên cứu các hành vi đạo đức trong kinh doanh;
Xậy dựng đạo đức trong kinh doanh;
Đưa ra biện pháp khắc phục và giải quyết các hạn chế và thiếu sót.
Thông tin được thu thập từ:
Sách “ Đạo đức kinh doanh & Văn hóa doanh nghiệp”
“PGS.TS.Nguyễn Mạnh Quân”
2
Website:
doanh-.316958.html
Website:
nam-thuc-tai-va-giai-phap.316952.html
Và một số thông tin từ các website khác.
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Phần 1. Khái niệm đạo đức và kinh doanh
A. Đạo đức:
1. Đạo đức là gì?
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm
điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người đối với bản thân và trong quan
hệ với người khác và với xã hội.
2. Sự khác nhau giữa đạo đức và luật pháp:
ĐẠO ĐỨC LUẬT PHÁP
Tính cưỡng chế Tự nguyện Bắt buộc
Thể hiện văn bản Không Có
Phạm vi điều chỉnh
Rộng bao quát mọi
lĩnh vưc của thế giới
tinh thần .
Hẹp chỉ điều chỉnh
hành vi liên quan đến
chế độ xã hội, chế độ
nhà nước .
Đạo lý đúng đắn tồn tại
bên trên luật.
Chỉ làm rõ những mẫu
số chung nhỏ nhất của
các hành vi hợp lẽ phải.
B. Kinh doanh:
1. Kinh doanh là gì?
Kinh doanh là toàn bộ hay một phần quá trình đầu tư từ sản xuất,
tiêu thụ đến cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Là hoạt động kinh tế xã hội thường ngày.
2. Các loại hình kinh doanh:
a. Sản xuất kinh doanh:
Là hoạt động của các doanh nghiệp chế tạo các sản phẩm cho xã hôi,
bán được trên thị trường và đạt một mức lời nhất định.
b. Thương mại:
Góc ở chữ “mãi mại”, mua ở chỗ nhiều, bán ở chỗ ít; mua ở chỗ rẻ,
bán ở chỗ đắt.
Thương mại không chỉ đơn thuần là hành vi mua bán hàng hóa, mà
còn là các dịch vụ mua bán như: môi giới, đại lý … và xúc tiến thương mại.
c. Dịch vụ:
Là các hoạt động đáp ứng nhu cầu con người một cách hợp pháp để
hưởng thù lao.
Ngày nay, tỷ lệ dịch vụ đóng góp vào GDP của các quốc gia phát triển
rất cao.
d. Đầu tư:
Phải góp vốn cụ thể để làm ăn chính đáng thì mới gọi là đầu tư.
Có đầu tư trong nước và nước ngoài: đầu tư trực tiếp FDI và đầu tư
gián tiếp FII .
3. Vấn đề xã hội của hoạt động kinh doanh:
Hoạt động kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi công dân và
an sinh xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường làm nảy sinh ra nhiều
vấn đề xã hội cần được giải quyết như:
Những vấn đề này cần được giải quyết như thế nào?
a. Lợi nhuận:
Lợi nhuận ngày nay phải hiểu là “hai bên cùng có lợi”, lợi ích cá nhân
phải đặt trong nhiệm vụ xã hội.
b. Cạnh tranh:
Cạnh tranh luôn phải đặt trong lợi ích xã hội để không làm thiệt hại
quyền lợi người tiêu dung, mà phải tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn.
c. Môi trường:
Sản xuất ngày nay nảy sinh vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài
nguyên và mất cân bằng sinh thái.
Phần 2. Đạo đức kinh doanh:
A. Sơ lược đạo đức kinh doanh:
I. Khái niệm đạo đức kinh doanh:
Là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh,
đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
Vấn đề
xã hội
Cạnh
tranh
Lợi
nhuận
Môi
trường
II. Lịch sử phát triển của đạo đức kinh doanh:
1. Ở phương Đông, theo quan điểm nho giáo thì hoạt động kinh
doanh không được xem trọng do tư tưởng trọng nông.
Phường buôn bán là những kẻ tiểu nhân, ti tiện.
Hành vi “buôn bán” bị coi rẻ, bị đánh đồng với các hành vi “lừa
đảo”.
“Đồ con buôn!” là một câu chửi rất nặng nề ở miền bắc Việt Nam
cách đây 30 năm.
2. Ở phương Tây, đạo đức kinh doanh xuất phát từ tín điều tôn
giáo:
a. Luật tiên tri Mose Law) – Do Thái giáo:
Tới mùa thu hoạch không nên gặt hết.
Ngày Sabbath chủ và thợ được nghỉ.
Sau 50 năm, mọi món nợ được hủy bỏ.
b. Giáo hội công giáo đề ra tiêu chuẩn:
Tiền nào của nấy.
Không trả lương cho thợ dưới mức có thể sống được.
c. Luật hồi giáo ngăn cản việc cho vay lãi.
3. Đạo đức kinh doanh thời cận đại:
a. Nhiều tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh đã được luật hóa:
Luật chống độc quyền Sherman - act of America 1896 .
Luật tiêu chuẩn chất lượng.
Luật bảo vệ người tiêu dùng.
b. Hoa Kỳ 1900 – 1970:
Trước 1960: Giáo hội đề nghị mức lương công bằng, quyền công
dân, quan tâm mức sống và các giá trị khác.
Năm 1963, Kennedy đã đưa ra thông báo đặc biệt bảo vệ người tiêu
dùng.
Năm 1965, yêu cầu ngành ôtô coi trọng sự an toàn và sự sống của
người sử dụng.
Năm 1970, luật về kiểm tra phóng xạ, luật về nước sạch, luật về
chất độc hại.
c. Hoa Kỳ - thập niên 1970s:
Đạo đức kinh doanh trở thành một lĩnh vực nghiên cứu.
Bắt đầu viết và giảng dạy về trách nhiệm xã hội, những nguyên tắc
cần được áp dụng trong kinh doanh.
Thành lập trung tâm nghiên cứu đạo đức kinh doanh.
Cuối những năm 70, bùng nổ vấn nạn hối lộ, quảng cáo lừa gạt,
thông đồng cấu kết với nhau để đặt giá: đạo đức kinh doanh đã trở thành vấn
đề nóng của xã hội.
d. Hoa Kỳ - thập niên 1980s:
Hơn 30 cơ quan nghiên cứu đạo đức kinh doanh được thành lập.
500 khóa học và 70.000 sinh viên được học về đạo đức kinh doanh
ở các trường Đại học ở Mỹ.
Các công ty lớn như Johnson & Jondson, Carterpilar đã thành lập
ủy ban đạo đức và chính sách xã hội để giải quyết những vần đề trong công
ty.
e. Hoa Kỳ - thập niên 1990s:
Chính quyền Clinton:
Thể chế hóa đạo đức kinh doanh.
Ủng hộ thương mại tự do.
Ủng hộ trách nhiệm của doanh nghiệp.
11/1991, chỉ dẫn xử án đối với các tổ chức vi phạm.
Khuyến khích các doanh nghiệp có biện pháp trành hành vi vô đạo
đức.
f. Thế giới - từ năm 2000 đến nay:
Đạo đức kinh doanh là lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm.
Đạo đức kinh doanh được xem xét từ nhiều góc độ: luật pháp, triết
học và các khoa học xã hội khác.
Đạo đức kinh doanh đã gắn chặt khái niệm trách nhiệm đạo đức với
việc ra quyết định.
Các hội nghị thường xuyên về đạo đức kinh doanh.
B. Các nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh:
I. Tính trung thực:
Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời. Giữ lời hứa,
giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm. Trung thực trong
chấp hành luật pháp của nhà nước, không làm ăn phi pháp như trốn thuế, lậu
thuế, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm. Thực hiện
những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục, trung thực trong giao tiếp với
bạn hàng (giao dịch, đàm phán, kí kết) và người tiêu dùng: không làm hàng
giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử dụng trái phép những nhãn
hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, phá giá theo lối ăn cướp, trung thực ngay
với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt két, khiếm công vi tự.
Chữ “Tín” là đức tính hàng đầu của doanh nhân, là tôn trọng sự thật
và lẽ phải trong hành vi ứng xử, là cơ sở cho các quan hệ hợp tác trong hoạt
động kinh doanh.
“Một sự thất tín, vạn sự bất tin”.
II. Tôn trọng con người:
Đối với những người cộng sự và dưới quyền: tôn trọng phẩm giá,
quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển
của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng quyền tự do và các quyền hạn
hợp pháp khác.
Đối với khách hàng: tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng.
Đối với đối thủ cạnh tranh: tôn trọng lợi ích của đối thủ.
III. Tính sáng tạo:
Hoạt động kinh doanh diễn ra trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Để có thể tồn tại và phát triển nhất thiết đòi hỏi bạn phải sang tạo biết kết
hợp tính khoa học và tính nghệ thuật trong kinh doanh .
Hãy nghĩ đến điều người khác chưa nghĩ,
hãy làm điều người khác chưa làm,
Nếu họ làm rồi, hãy làm … tốt hơn!
C. Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội:
I. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp:
Là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền
vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng
về giới tính, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào
tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng… theo cách có lợi cho cả
doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.
II. Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội:
1. Khía cạnh kinh tế:
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
phải sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá
có thể duy trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp
Kinh tế
Đạo đức
Nhân văn
Pháp lý
TRÁCH
NHIỆM
với các nhà đầu tư; là tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những
nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; là
phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ
thống xã hội.
Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp
phần vào tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo
công ăn việc làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ
hội phát triển nghề và chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi
trường lao động an toàn, vệ sinh và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân nơi làm
việc.
i với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là
cung cấp hàng hoá và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn
liên quan đến vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về
sản phẩm (quảng cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh.
Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, trách nhiệm kinh tế của doanh
nghiệp là bảo tồn và phát triển các giá trị và tài sản được ủy thác. Những giá
trị và tài sản này có thể là của xã hội hoặc cá nhân được họ tự nguyện giao
phó cho tổ chức, doanh nghiệp - mà đại diện là người quản lý, điều hành -
với những điều kiện ràng buộc chính thức.
Ví dụ: Yêu cầu về đạo đức đối với chiến lược
kinh doanh
Ken Wasch, chủ tịch hiệp hội Software Publishers
Association Mỹ đã tuyên bố rằng “Rõ rang công lý đã
xác nhận rằng chiếm giữ một sân chơi riêng trong công
nghệ và phần mềm máy tính là nhân tố quyết định để
đảm bảo sự lựa chọn của người tiêu dùng và tiếp tục
phát triển sản phẩm”. Tuyên bố này đã được đưa ra sau
cuộc điều tra của Bộ Tư pháp Mỹ. Các đối thủ cạnh
tranh của Microsoft đã khiếu nại rằng Microsoft
Network Explorer đã được “bán kèm” với phần mêm
Windows có tác dụng quy định bộ kết nối Internet mà
người tiêu dùng phải sử dụng. Vào thời điểm đó, hệ
thống điều hành của Microsoft được khoảng 90% người
khách hàng sử dụng. Như vậy, người tiêu dùng và các
đối thủ cạnh tranh cho rằng Microsoft có thể có quyền
lực độc quyền quá lớn trên thị trường phần mềm máy
tính.
Đối với các bên liên đới khác, nghĩa vụ kinh tế của doanh nghiệp là
mang lại lợi ích tối đa và công bằng cho họ. Nghĩa vụ này được thực hiện
bằng việc cung cấp trực tiếp những lợi ích này cho họ qua hàng hoá, việc
làm, giá cả, chất lượng, lợi nhuận đầu tư, vv..
Nghĩa vụ kinh tế còn có thể được thực hiện một cách gián tiếp thông
qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong kinh doanh phản ánh những khía cạnh liên
quan đến lợi ích của người tiêu dùng và lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có thể sử dụng để phân phối cho người lao động và chủ sở hữu. Các
biện pháp cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể làm thay đổi khả năng
tiếp cận và lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng ; lợi nhuận và tăng trưởng
trong kinh doanh so với các hãng khác có thể tác động đến quyết định lựa
chọn đầu tư của các chủ đầu tư. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã rất ý
thức trong việc lựa chọn biện pháp cạnh tranh; và triết lý đạo đức của doanh
nghiệp có thể có ý nghĩa quyết định đối với việc nhận thức và lựa chọn
những biện pháp có thể chấp nhận được về mặt xã hội. Những biện pháp
cạnh tranh như chiến tranh giá cả, phá giá, phân biệt giá, có định giá, câu kết
... có thể làm giảm tính cạnh tranh, tăng quyền lực độc quyền và gây thiệt
hại cho người tiêu dùng. Lạm dụng các tài sản trí tuệ hoặc bí mật thương
mại một cách bất hợp pháp cũng là biện pháp thường thấy trong cạnh tranh.
Điều này không chỉ liên quan đến vấn đề sở hữu và lợi ích mà còn liên quan
đến quyền của con người.
Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế
trong kinh doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý.
2. Khía cạnh pháp lý:
Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là
doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức
đối với các bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được
cạnh tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và
an toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các
nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản,
nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh:
(1) Điều tiết cạnh tranh:
Do quyền lực độc quyền có thể dẫn đến những thiệt hại cho xã
hội và các đối tượng hữu quan, như nền kinh tế kém hiệu quả do
“mất không” về phúc lợi xã hội, phân phối phúc lợi xã hội không
công bằng do một phần “thặng dư” của người tiêu dùng hay người
cung ứng bị tước đoạt, như đã được chứng minh trong lý thuyết Kinh
tế học thị trường. Khuyến khích cạnh tranh và đảm bảo môi trường
cạnh tranh lành mạnh là cách thức cơ bản và quan trọng để điều tiết
quyền lực độc quyền. Vì vậy, nhiều nước đã thông qua nhiều sắc luật
nhằm kiểm soát tình trạng độc quyền, ngăn chặn các biện pháp định
giá không công bằng (giá độc quyền) và được gọi chung là các luật
pháp hỗ trợ cạnh tranh.
(2) Bảo vệ người tiêu dùng:
Để bảo vệ người tiêu dùng, luật pháp đòi hỏi các tổ chức kinh
doanh phải cung cấp các thông tin chính xác về sản phẩm và dịch vụ
cũng như phải tuân thủ các tiêu chuẩn về sự an toàn của sản phẩm.
Điển hình về các luật bảo vệ người tiêu dùng là những quy định
giám sát chặt chẽ về quảng cáo và an toàn sản phẩm. Mặc dù công
nhận trách nhiệm tự bảo vệ và “tự thông tin” của mọi đối tượng và
người tiêu dùng, luật pháp vẫn cố gắng bảo vệ người tiêu dùng qua
việc nhấn mạnh tính chất khác nhau về trình độ nhận thức và khả
năng tham gia khi ra quyết định tiêu dùng của các đối tượng khác
nhau, trong đó người sản xuất và người quảng cáo có trình độ cao
hơn hẳn và năng lực gắn như tuyệt đối so với những đối tượng khác.
Luật pháp cũng bảo vệ những người không phải đối tượng tiêu
dùng trực tiếp. Do các biện pháp kinh doanh và marketing chủ yếu
được triển khai thông qua các phương tiện đại chúng, chúng có thể
gây tác động khác nhau đồng thời đến nhiều đối tượng. Ngay cả
những tác động bất lợi nằm ngoài mong đợi đối với các nhóm người
không phải là “đối tượng mục tiêu” vẫn bị coi là phi đạo đức và
không thể chấp nhận được, vì có thể dẫn đến những hậu quả không
mong muốn ở những đối tượng này.
Trong những năm gần đây, mối quan tâm của người tiêu dùng
và xã hội không chỉ dừng lại ở sự an toàn đối với sức khỏe và lợi ích
của những người tiêu dùng trong quá trình sử dụng các sản phẩm
dịch vụ cụ thể, mà được dành cho những vấn đề mang tính xã hội,
lâu dài hơn liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm dịch vụ như
bảo vệ môi trường.
(3) Bảo vệ môi trường:
Luật bảo vệ môi trường được ban hành lần đầu tiên vào những
năm 1960 ở nước Mỹ, xuất phát từ những câu hỏi đặt ra từ việc phân
tích về lợi ích và thiệt hại của một quyết định, một hoạt động kinh
doanh đối với các đối tượng khác nhau trong phạm vi toàn xã hội.
Kết quả phân tích đã không làm thỏa mãn những nhà phân tích do
những khiếm khuyết và khó khăn trong việc xác định các đối tượng
hữu quan và việc đo lường những thiệt hại vật chất và tinh thần đối
với họ. Điều trở nên đặc biệt khó khi đánh giá hệ quả lâu dài gây ra
đối với sức khỏe con người, hiệu quả sản xuất và nguồn lực chung
của xã hội do những quyết định và hoạt động sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng hiện nay gây ra.
Những vấn đề phổ biến được quan tâm hiện nay là việc thải
chất thải độc hại trong sản xuất vào môi trường không khí, nước, đất
đai, và tiếng ồn. Bao bì được coi là một nhân tố quan trọng của các
biện pháp marketing, nhưng chúng chỉ có giá trị đối với gười tiêu
dùng trong quá trình lựa chọn và bảo quản hàng hóa. Chất thải loại
này ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhất là ở các đô thị, khi các
hãng sản xuất ngày càng coi trọng yếu tố marketing này.
Ví dụ: Luật bảo vệ môi trường ở Mỹ
Clean Air Act, 1970. Quy định tiêu chuẩn chất
lượng không khí, yêu cầu lập kế hoạch thực thi tiêu
chuẩn này và phải được chính quyền phê chuẩn.
National Environmental Policy Act, 1970. Xây
dựng các mục tiêu chính sách tổng quát cho các cơ
quan chính phủ; thành lập Hội đồng Chất lượng Môi
trường làm cơ quan điều phối.
Coastal Zone ManagementAct, 1972. Cung cấp
nguồi tài chính cho các tiểu bang để ngăn chặn tình
trạng ô nhiễm bờ biển quá mức.
Federal Water Pollution Control Act, 1972. Đảm
bảo việc ngăn chặn, hạn chế, tiến tới loại trừ tình trạng
ô nhiễm nguồn nước.
Noise Pollution Control Act, 1972. Đảm bảo việc
kiểm soát tiếng ồn phát ra từ một số hạng mục sản phẩm
cơ khí nhất định.
Toxic Substances Control Act, 1972. Yêu cầu thử
nghiệm và hạn chế sử dụng một số hóa chất nhất định,
nhằm bảo đảm sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Bên cạnh những vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, vật chất,
vấn đề bảo vệ môi trường văn hóa – xã hội, phi vật thể cũng được
chú trọng ở nhiều quốc gia. Tác động của các biện pháp và hình thức
quảng cáo tinh vi, đặc biệt là thông qua phim ảnh, có thể dẫn đến
những trào lưu tiêu dùng, làm xói mòn giá trị văn hóa và đạo đức
truyền thống, làm thay đổi giá trị tinh thần và triết lý đạo đức xã hội,
làm mât đi sự trong sáng và tinh tế của ngôn ngữ. Những vấn đề này
cũng được nhiều đối tượng và quốc gia quan tâm.
(4) An toàn và bình đẳng:
Luật pháp cũng quan tâm đến việc đảm bảo quyền bình đẳng
của mọi đối tượng khác nhau với tư cách là người lao động. Luật
pháp bảo vệ người lao động trước tình trạng phân biệt đối xử. Sự
phân biệt có thể là vì tuổi tác, giới tính, dân tộc, thể chất. Luật pháp
thừa nhận quyền của các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng những
người có năng lực nhất vào các vị trí công tác khác nhau theo yêu
cầu trong bộ máy tổ chức. Tuy nhiên, luật pháp cũng ngăn chặn việc
sa thải người lao động tùy tiện và bất hợp lý. Những quyền cơ bản
của người lao động