Hoạt động ngân hàng làn loại hình hoạt động có đặc thù mang tính
nhạy cảm cao. Sự lan truyền thông tin mang tính bất lợi cho một ngân hàng có
thể dẫn đến việc ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có
thể dẫn đến việc phá sản một ngân hàng, đồng thời có thể kéo theo sự đổ vỡ
của hàng loạt ngân hàng gây khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ. Thực tế
cho thấy, khi người dân có những bức xúc dẫn đến việc khiếu kiện nếu không
được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật sẽ gây tâm lý mất lòng tin của người
dân vào hệ thống ngân hàng, thậm chí có những trường hợp dẫn đến khiếu
kiện tập thể đông người, gây mất ổn định kinh tế – xã hội nói chung và ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng nói riêng.
Chính vì vậy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực ngân
hàng là vô cùng quan trọng. Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo nhanh
chóng, khách quan, công bằng và đúng pháp luật góp phần ổn định trật tự xã
hội, đảm bảo tính minh bạch của hệ thống tài chính, ngân hàng, củng cố niềm
tin của người dân, góp phần đảm bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng thu
hút nhân dân gửi nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng hoặc vay vốn để sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động ngân hàng.
Quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một chức
năng quan trọng của Thanh tra ngân hàng. Để cho công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo được thực hiện có hiệu quả, quản lý Nhà nước về công tác cũng là
cần, và việc quan trọng là phải xác định được nội dung của công tác này và đề
ra các vi phạm thực hiện có hiệu quả.
19 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3662 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong ngành ngân hàng trên địa bàn tỉnh Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………………
TIỂU LUẬN
Một số vấn đề trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong ngành ngân hàng trên địa bàn tỉnh Sơn La
lời nói đầu
2
Hoạt động ngân hàng làn loại hình hoạt động có đặc thù mang tính
nhạy cảm cao. Sự lan truyền thông tin mang tính bất lợi cho một ngân hàng có
thể dẫn đến việc ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có
thể dẫn đến việc phá sản một ngân hàng, đồng thời có thể kéo theo sự đổ vỡ
của hàng loạt ngân hàng gây khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ. Thực tế
cho thấy, khi người dân có những bức xúc dẫn đến việc khiếu kiện nếu không
được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật sẽ gây tâm lý mất lòng tin của người
dân vào hệ thống ngân hàng, thậm chí có những trường hợp dẫn đến khiếu
kiện tập thể đông người, gây mất ổn định kinh tế – xã hội nói chung và ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng nói riêng.
Chính vì vậy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực ngân
hàng là vô cùng quan trọng. Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo nhanh
chóng, khách quan, công bằng và đúng pháp luật góp phần ổn định trật tự xã
hội, đảm bảo tính minh bạch của hệ thống tài chính, ngân hàng, củng cố niềm
tin của người dân, góp phần đảm bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng thu
hút nhân dân gửi nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng hoặc vay vốn để sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động ngân hàng.
Quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một chức
năng quan trọng của Thanh tra ngân hàng. Để cho công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo được thực hiện có hiệu quả, quản lý Nhà nước về công tác cũng là
cần, và việc quan trọng là phải xác định được nội dung của công tác này và đề
ra các vi phạm thực hiện có hiệu quả.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, Tôi xin trình bày “Một số vấn đề
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong ngành ngân hàng trên địa
bàn tỉnh Sơn La”. Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần:
I. Cơ sở lý luận chung.
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong ngành ngân hàng trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Sơn
La.
3
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước về
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và trong ngành ngân hàng nói
riêng.
I. Cơ sở lý luận chung.
1. Quyền công dân về khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được
ghi nhận tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền khiếu nại,
quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc bất kỳ cá nhân nào…”.
Để cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Quốc hội đã thông
qua Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Luật Khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi
bổ sung năm 2004 tại Điều 1, Luật Khiếu nại, tố cáo quy định:
1. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết
định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Cán bộ công chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật của người có
thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây
thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Đồng thời, Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người khiếu
nại, tố cáo, người bị khiếu nại, tố cáo tại các Điều 17, 18, 57, 58. Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số
4
điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và quy định chi tiết việc thực hiện quyền
khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại các Điều 2, 3, 4.
Có thể nói, khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân, là hình thức
dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
công dân. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động của cơ quan
Nhà nước.
2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tại Điều 74 Hiến pháp 1992 quy định: “Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy
định”. “Mọi hành vi vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị
thiệt hại có quyền bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm
việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để
vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Cụ thể quy định của Hiến pháp 1992, tại Điều 5 Luật Khiếu nại, tố cáo
quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp người đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh; tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố
cáo; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm
ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi
hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định
của mình”.
Có thể nói, trong từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể, Quốc hội đã ban hành
Luật Khiếu nại, tố cáo; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành về thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo, thẩm
5
quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Có
thể kể đến các văn bản như: Luật Khiếu nại, tố cáo 1998; Nghị định số
67/1999/NĐ-CP ngày 07/8/1999 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
Khiếu nại, tố cáo; Nghị định số 62/2002/NĐ-CP ngày 14/62002 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 67/1999/NĐ-CP; Chỉ thị số 09/CT-TW của
Ban Bí thư TW Đảng về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo. Nghị định số 53/2002/NĐ-CP ngày 19/4/2005 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Trong ngành ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
Công văn số 1148/NHNN-tuyên truyền ngày 21/9/2001 “về việc Hướng dẫn
một số điểm khi giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các ngân hàng”. Theo quy định
tại văn bản này Ngân hàng Nhà nước (NHNN) (bao gồm các Vụ, Cục, các
đơn vị, doanh nghiệp trực thuộc và NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố), các tổ
chức tín dụng Nhà nước (gồm cả các đơn vị trực thuộc), hệ thống Tổng Công
ty vàng bạc, đá quý có nhiệm vụ giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo
Luật Khiếu nại, tố cáo.
Đối với khiếu nại lần đầu, thẩm quyền giải quyết thuộc Thủ trưởng đơn
vị nơi phát sinh quyết định hành chính, hành vi hành chính trực tiếp xâm hại
tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Nếu người khiếu nại không
đồng ý với quyết định này, tiếp tục khiếu nại thì Thủ trưởng cấp trên trực tiếp
của người đã giải quyết phải giải quyết; Đối với tố cáo, đơn tố cáo các chức
danh do Thống đốc NHNN bổ nhiệm thuộc thẩm quyền giải quyết của Thống
đốc NHNN. Các chức danh khác do Giám đốc NHNN Chi nhánh tỉnh, thành
phố, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc NHNN và các cấp lãnh đạo tổ chức tín
dụng Nhà nước, Tổng Công ty vàng bạc, đá quý giải quyết.
6
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã
được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành, là cơ sở pháp lý
quan trọng cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
* Công văn quy định phạm vi, đối tượng thẩm quyền giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của các Ngân hàng.
3. Quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Nội dung quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã được quy
định tại Điều 8 của Luật Khiếu nại, tố cáo (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2005).
Đối với cơ quan thanh tra Nhà nước tập trung làm tốt một số nội dung
sau:
- Tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến quán triệt pháp luật về khiếu nại,
tố cáo tại địa phương, tại các cơ quan, đơn vị thuộc ngành, giúp cho thủ
trưởng các các, các ngành, các cơ quan, tổ chức và công dân hiểu và nắm
vững được những quy định của pháp luật để thực hiện đúng theo thẩm quyền
và phạm vi trách nhiệm quản lý đối với địa phương, ngành. Việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo có thể được thực hiện theo
nhiều hình thức khác nhau: tập huấn, phổ biến pháp luật thông qua cơ quan
thông tin đại chúng, thông qua việc tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, qua hoạt
động thanh tra, tiếp công dân, qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, qua việc thanh
tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
- Cơ quan thanh tra ban hành hoặc tham mưu với chính quyền cùng cấp
ban hành các văn bản về giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn của Tỉnh,
trong các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ.
7
- Văn bản chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra có thể là các chỉ thị,
quyết định, quy chế hướng dẫn nghiệp vụ hoặc đôn đốc thực hiện một nhiệm
vụ, nội dung vào đó về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Xây dựng chủ trương kế hoạch thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
hàng năm, kế hoạch bao gồm tiến hành công tác giải quyết kinh nghiệm thực
hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Hướng dẫn về nghiệp vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hướng
dẫn có thể bằng văn bản hoặc tập huấn nghiệp vụ cụ thể về giải quyết khiếu
nại, tố cáo, tiếp công dân, xử lý phân loại đơn thư…
- Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Thủ trưởng các ngành, các cấp
trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Việc thanh tra trách nhiệm phải được thực hiện thường xuyên để phát
hiện và chấn chỉnh kịp thời những hành vi vi phạm thiếu trách nhiệm trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Mặt khác, thanh tra các cấp
còn tổng hợp các nguồn thông tin, nhận xét, đánh giá các sự việc phát sinh nổi
cộm. Từ đó đề xuất UBND các cấp, các ngành giải quyết kịp thời các khiếu
nại, tố cáo.
- Tổng hợp tiến hành thực hiện chương trình, kế hoạch về công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo định không báo cáo công dân.
Thông qua kiểm tra trách nhiệm về báo cáo của các cấp, các ngành trên
địa bàn, thanh tra các cấp tổng hợp tình hình thực hiện chương trình, kế hoạch
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo định kỳ báo cáo cấp trên theo quy định.
- Tổ chức tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học về khiếu
nại, tố cáo nhằm bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thanh
tra.
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trên địa bàn tỉnh Sơn La những năm gần đây:
1. Thực hiện xây dựng chương trình, kế hoạch, ban hành văn bản
chỉ đạo và tổng hợp báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
8
Hàng năm, căn cứ chủ trương, kế hoạch của Thanh tra NHNN Việt
Nam và thực tế trên địa bàn, Thanh tra chi nhánh đều xây dựng chương trình,
kế hoạch thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo cùng với việc thanh tra trách
nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thuộc quyền quản lý (Ngân hàng và QTDND
cơ sở) trình Giám đốc duyệt. Đây là căn cứ để ra quyết định thanh tra, kiểm
tra của Chánh Thanh tra theo thẩm quyền.
Kế hoạch, chương trình thanh tra được gửi cho Thanh tra NHNN Việt
Nam và Thanh tra Tỉnh theo thời hạn quy định.
Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch hàng năm
và căn cứ chỉ đạo của NHNN Việt Nam, thanh tra chi nhánh thường xuyên
ban hành các văn bản chỉ đạo các TCTD và chi nhánh TCTD trên địa bàn về
thực hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; báo cáo tình hình thực hiện
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 1 quý, 6 tháng, năm và 5 năm; yêu cầu
báo cáo kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo các vụ việc cụ thể thuộc thẩm
quyền do Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước chuyển đến.
Căn cứ báo cáo của các Ngân hàng, TDND về công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo và hoạt động về công tác của đơn vị thanh tra chi nhánh đã tổng
hợp báo cáo về công tác này gửi NHNN Việt Nam, Thanh tra tỉnh, Tỉnh uỷ
theo quy định. báo cáo đã đánh giá được tình hình đơn thư, nguyên nhân phát
sinh đơn thư, kết quả giải quyết, bài học kinh nghiệm và kiến nghị các vấn đề
để thực hiện tốt hơn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, và
phổ biến chính sách, chế độ và kết quả.
2. Tổ chức chỉ đạo thực hiện các quy định về khiếu nại, tố cáo, phổ
biến về tuyên truyền các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Chi nhánh NHNN được giao
cho Thanh tra Chi nhánh trực tiếp xử lý đơn thư và thụ lý giải quyết nếu thuộc
thẩm quyền. Cùng với việc tổ chức thực hiện tốt tại đơn vị, Thanh tra Chi
nhánh tham mưu cho Giám đốc chi nhánh những yêu cầu các Ngân hàng,
9
NHNN thực hiện nghiêm công tác này, coi đây là một biện pháp quan trọng
để giữ gìn uy tín tổ chức tín dụng.
Quan điểm đề ra là: Giải quyết kịp thời, đúng quy trình nghiệp vụ, đúng
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không để xảy ra tiếp khiếu,
khiếu tố vượt cấp, khiếu tố kéo dài và không để xảy ra điểm nóng.
Để làm tốt điều đó, yêu cầu NHNN và các tổ chức tín dụng trên địa bàn
phải lựa chọn, bố trí, phân công cán bộ có phẩm chất, có năng lực chuyên
môn, nắm vững chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước thường trực
tiếp công dân, các phòng quy định và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm
quyền.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến đầy đủ các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các quy
định của ngành cho cán bộ, công chức, viên chức, từ đó nâng cao ý thức chấp
hành các quy định của pháp luật, của ngành, nhất là những điều cấm cán bộ
ngân hàng không được làm và nâng cao năng lực, trình độ để làm tốt công tác
này.
Các hình thức giáo dục chủ yếu là thông qua tập huấn nghiệp vụ, thi
tìm hiểu pháp luật và chế độ nghiệp vụ, tự học tập văn bản pháp luật của Nhà
nước về khiếu nại, tố cáo, chế độ của ngành để nâng cao năng lực và trình độ
cho cán bộ, từ đó làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích cho khách hàng.
Bố trí phòng tiếp dân tại nơi thuận tiện, với đầy đủ điều kiện vật chất và
trang thiết bị cần thiết, có sổ sách theo dõi. Xây dựng nội quy phòng tiếp dân
và có br thông báo nội quy cho tất cả cán bộ Ngân hàng, Khách hàng biết.
Các Ngân hàng (cả các chi nhánh cấp II, III) đều có đặt hòm thư góp ý tại nơi
thuận tiện cho khách hàng khi cần góp ý.
Các Ngân hàng và QTDND tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến
rộng rãi về chế độ, thể lệ nghiệp vụ về tiền tệ, tín dụng, thanh toán… của
ngành đến các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm làm cho mọi
10
người có thể nắm được các quy định của pháp luật nói chung và ngành Ngân
hàng nói riêng, từ đó hạn chế thắc mắc dẫn đến khiếu kiện không đúng.
Thực hiện tốt sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị với nhau (như giữa
Ngân hàng với Uỷ ban kiểm tra Đảng, Thanh tra Nhà nước; giữa NHNN và
NHTM…) và với cấp Uỷ, chính quyền địa phương, tranh thủ sự chỉ đạo của
Trung ương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thường xuyên tiến hành kiểm tra công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo của cấp dưới, Thanh tra NHNN hàng năm thanh tra đối với 5/5
QTDND và 4 – 6 chi nhánh NHTM (cấp I và cấp II), các NHTM thực hiện
kiểm tra đối với cấp dưới ít nhất 1 lần, một đơn vị trực thuộc. Qua thanh tra,
kiểm tra cho thấy nhìn chung các chi nhánh Ngân hàng và QTDND đã làm tốt
trách nhiệm của mình. Các thiếu sót khắc phục kịp thời.
Hàng tháng, quý, năm đều có kiểm điểm đánh giá kết quả đã làm được
và những tồn tại, thiếu sót trong thực hiện nhiệm vụ để rút ra những bài học
kinh nghiệm, từ đó nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chủ trương, biện
pháp chỉ đạo của cấp trên, 5 năm qua các Ngân hàng, QTDND đã tổ chức
triển khai và thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
trên địa bàn. Các đơn thư được tiếp nhận, xử lý kịp thời và phân công trách
nhiệm giải quyết thoả đáng, nên không có khiếu kiện kéo dài, hầu như không
có tái khiếu và khiếu kiện vượt cấp, không có điểm nóng và tồn đọng đơn thư
không được giải quyết.
d. Tình hình và kết quả công tác tiếp dân, xử lý đơn thư.
Số lượt công dân đã tiếp: 29
Số đơn thư đã nhận: 71 (370 khiếu nại, 7 tố cáo, 34 đơn khác)
Số đơn thư được trả lời đúng hạn: 71.
Số đơn thư còn tồn đọng: không
- Theo Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định 89-CP về tiếp công dân, tại
Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh hoặc người được uỷ quyền tiếp
11
dân vào ngày 10 hàng tháng; Chánh Thanh tra chi nhánh hoặc người được uỷ
quyền tiếp dân vào ngày 25 hàng tháng. Các Ngân hàng bố trí cán bộ lãnh
đạo, cán bộ Thanh tra, hoặc Kiểm tra viên chuyên trách (ở cấp huyện), Kiểm
tra viên trưởng (ở chi nhánh Tỉnh) là người trực tiếp dân. NHĐT và PT tiếp
dân 1 ngày trong tháng. Ngoài những ngày theo lịch đã công bố, khi có người
đến khiếu nại, tố cáo vào các ngày làm việc trong tuần đơn vị đều bố trí cán
bộ có trách nhiệm đón tiếp chu đáo.
- Chi nhánh đã xây dựng và thực hiện theo Quy chế tiếp công dân, xác
định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ
của người đến khiếu nại, tố cáo.
- Chi nhánh có phòng tiếp dân với đầy đủ trang thiết bị: bàn ghế, tủ tài
liệu, sổ sách… theo quy định. Phòng được bố trí ở nơi thuận tiện cho người
dân khi đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được dễ dàng. Chi
nhánh có hòm thư góp ý đặt ở nơi giao dịch.
- Cán bộ tiếp dân là những người có am hiểu nhất định về các quy định
của pháp luật, nhất là những quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và
liên quan đến hoạt động Ngân hàng.
- Quá trình tiếp dân, Ngân hàng đều thực hiện đúng các quy định của
pháp luật trong cả trường hợp đơn khiếu nại, tố cáo đúng thẩm quyền hoặc
không đúng thẩm quyền, có đơn viết tay hoặc khiếu nại, tố cáo miệng. Qua
tiếp dân đã từng bước rút kinh nghiệm và cải tiến để việc tiếp dân ngày càng
có chất lượng hơn.
- Các đơn thư không thuộc thẩm quyền đã hướng dẫn người khiếu nại
đến đúng địa chỉ hoặc NHNN chuyển cho các Ngân hàng trên địa bàn thụ lý
và giải quyết. Những đơn thuộc thẩm quyền do các cơ quan, đơn vị có liên
quan chuyển quyết cho các cơ quan đơn vị có liên quan cần phải báo cáo.
Trong 5 năm qua, số người đến phản ánh trực tiếp không nhiều, số đơn
khiếu kiện vượt cấp hầu như không có (chỉ có 1 vụ vào năm 2000 của nguyên
Chủ tịch HĐQT QTD thị trấn Phù Yên).
12
Trong 6 năm, các Ngân hàng đã nhận được và giải quyết 71 đơn thư
trong đó có 30 đơn khiếu nại 7 đơn tố cáo, 34 đơn đề nghị, kiến nghị theo
đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật và hướng dẫn của Thanh tra Nhà
nước, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trong các đơn thư đã được giải quyết về khiếu nại có 6 đơn khiếu nại
đúng; 18 đơn có đúng, có s