Tiểu luận Sự cần thiết phải tiến hành CNH, HĐH đất nước

Khi nói đến CNH, HĐH là nói đến quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kĩ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất cao nhất và là cái quyết định cho sự tồn tại của một chế độ xã hội, cách tiếp cận này cũng phù hợp với định nghĩa CNH, HĐH do Đại hội VII đề ra. Trước những thay đổi to lớn của thế giới đã ảnh hưởng đến nước ta (tích cực cũng như tiêu cực). Đảng ta đã xác định thời cơ và những thách thức lớn. Đó là thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực mới (cả bên trong và bên ngoài). Mặt khác quan hệ của nước ta đối với nước ngoài cùng với khả năng hội nhập với cộng đồng thế giới được mở rộng hơn bao giờ hết. Những thời cơ này được tạo ra trước hết là do thành tựu của công cuộc đổi mới đồng thời cũng là do tác động của nhiều xu thế tích cực trên thế giới. Bên cạnh những thời cơ, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII đã tạo ra bốn "nguy cơ". Đó là nguy cơ tụt hậu về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ về diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ trên có mối quan hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Đứng trước những thời cơ và thách thức đó Đảng ta chủ trương ". chủ động nắm bắt thời cơ luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết, đầy đủ và khắc phục các nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh trong quá trình thực hiện, bảo đảm phát triển đúng hướng." Để có một nền công nghiệp phát triển vững mạnh, đó là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta. Vì vậy mỗi người dân của đất nước Việt Nam đều muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc CNH,HĐH đất nước.

doc15 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 5382 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự cần thiết phải tiến hành CNH, HĐH đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 LÝ LUẬN CHUNG 4 I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC 4 1. Sự ra đời của quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam 4 2. Tính tất yếu phải tiến hành CNH-HĐH. 5 3. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng: 7 II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN ĐƯỢC ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH CNH,HĐH. 9 III/ MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI GẮN LIỀN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC. 14 KẾT LUẬN 15 LỜI MỞ ĐẦU Khi nói đến CNH, HĐH là nói đến quá trình dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kĩ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất cao nhất và là cái quyết định cho sự tồn tại của một chế độ xã hội, cách tiếp cận này cũng phù hợp với định nghĩa CNH, HĐH do Đại hội VII đề ra. Trước những thay đổi to lớn của thế giới đã ảnh hưởng đến nước ta (tích cực cũng như tiêu cực). Đảng ta đã xác định thời cơ và những thách thức lớn. Đó là thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực mới (cả bên trong và bên ngoài). Mặt khác quan hệ của nước ta đối với nước ngoài cùng với khả năng hội nhập với cộng đồng thế giới được mở rộng hơn bao giờ hết. Những thời cơ này được tạo ra trước hết là do thành tựu của công cuộc đổi mới đồng thời cũng là do tác động của nhiều xu thế tích cực trên thế giới. Bên cạnh những thời cơ, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII đã tạo ra bốn "nguy cơ". Đó là nguy cơ tụt hậu về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ về diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Các nguy cơ trên có mối quan hệ tác động lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Đứng trước những thời cơ và thách thức đó Đảng ta chủ trương "... chủ động nắm bắt thời cơ luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết, đầy đủ và khắc phục các nguy cơ, kể cả nguy cơ mới nảy sinh trong quá trình thực hiện, bảo đảm phát triển đúng hướng..." Để có một nền công nghiệp phát triển vững mạnh, đó là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta. Vì vậy mỗi người dân của đất nước Việt Nam đều muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc CNH,HĐH đất nước. LÝ LUẬN CHUNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC 1. Sự ra đời của quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam Ở nước ta công cuộc CNH đất nước đã được khởi đầu từ sau đại hội III (1960) của đảng. Chủ trương CNH của Đảng đã được định hướng thực hiện qua các kế hoạch dài hạn 5 năm. Song do điều kiện kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu, và do chính sách cấm vận của Mỹ làm cản trở sự giao lưu kinh tế của nước ta với thế giới. Nhưng quan tâm hơn cả là do lãnh đạo của đảng, nhà nước có sai lầm trong việc đề ra chủ trương cải tạo, xây dựng kinh tế thể hiện tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý trí. Trong CNH do nôn nóng muốn đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng như ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, muốn hiện đại hoá nhanh nhưng nền kinh tế của ta vốn nhỏ bé, phân tán lạc hậu mà lại đầu tư nhiều vốn kỹ thuật, sức lực xây dựng lớn nhiều cơ sở công nghiệp nặng nhiều công trình công cộng trong khi đất nước còn nhiều khó khăn to lớn chưa đủ những tiền đề cần thiết. Chính những sai lầm trên đã dẫn tới hậu quả mất cân đối lớn trong nền kinh tế, SX phát triển chậm, thu nhập quốc dân, năng suất lao động thấp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn nảy sinh nhiều tệ nạn XH. Đảng ta đã sớm nhận thức ra những sai lầm của mình Đại hội toàn quốc lần thứ VI của đảng (1986) là cái mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới. Đại hội đã nhận định đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là cả một thời kỳ dài khó khăn traỉ qua nhiều chặng xác định, và chúng ta ở chặng đường đầu tiên. Nhiệm vụ mục tiêu của chặng đường quá độ đầu tiên là Trong 5 năm trước mắt (1986- 1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được những mục tiêu của 3 chương trình kinh tế: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Nội dung của 3 chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội dung chính của CNH XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đường lối đổi mới của Đảng đề ra từ đại hội VI đã thực sự đi vào cuộc sống, đã đạt được những thành quả bước đầu rất quan trọng. Trước tiên là trong lĩnh vực KTXH. Đời sống nhân dân đã dần dần ổn định, sản lượng lương thực đã đáp ứng được nhu cầu của cả nước, hàng hoá thị trường đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của nhà nước về vốn, tiền lương... giảm đáng kể. Lạm phát được kiềm chế một bước, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn. Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt dược, đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng đã đề ra chủ trương kế thừa, phát huy những ưu điểm đã đạt được, khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong quá trình đổi mới đề ra từ đại hội VI, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên. Phương hướng và mục tiêu chính mà đại hội VII đã vạch ra là: “ Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát “ ổn định phát triển nâng cao hiệu quả SX, ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bước đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Với sự nỗ lực của toàn đảng toàn dân ta đến nay nền kinh tế nước ta đã chấm dứt được tình trạng suy thoái và trên đà phát triển toàn diện. 2. Tính tất yếu phải tiến hành CNH-HĐH. Công nghiệp hoá có nhiều con đường, có con đường cổ điển của các nước tư bản như Anh, Pháp, trải qua từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Thường đó là những nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến, do đó những bước tiến của CNH, HĐH thường gắn liền với những sáng chế phát minh của chính nó hoặc của thời đại. Vì vậy quá trình CNH thường kéo dài hàng trăm năm theo đà của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Ngày nay các nước đi sau tình hình đã đổi khác. Để giải quyết một vấn đề trong công nghiệp hoá có rất nhiều giải pháp hay công nghệ đã sẵn sàng đem ra sử dụng. Vấn đề ở đây là phải nắm bắt kịp thời những công nghệ hiện đại nhất phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Do đó CNH gắn với HĐH là một khả năng, một nhu cầu của các nước đi sau. Tuy nhiên để thực hiện CNH, HĐH đất nước cần phải nhận thức vấn đề sau một cách đúng đắn cụ thể. - Cùng với việc tiếp nhận công nghệ hiện đại cần phải chú ý đến đẩy mạnh cả công nghệ truyền thống trong nước. Không chỉ áp dụng các công nghệ tiên tiến mà còn phải biết tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Đối với khu vực công nghệ truyền thống và cơ khí truyền thống thì khuyến khích chủ yếu bằng chinhs sách kinh tế. Khuyến khích mọi sự thâm nhập của công nghệ hiện đại, hiện đại hoá từng bước công nghệ truyền thống và công nghệ cơ khí thông thường. Còn về mặt đầu tư của nhà nước để phát triển tiềm lực khoa học và định hướng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai chủ yếu là phải tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, cơ khí chính xác và tự động hoá... Để tạo điều kiện cần thiết cho việc đi thẳng, đi nhanh vào lĩnh vực có công nghệ cao. Không tự hạn chế trong các điều kiện tiền đề hiện có, công nghệ cao có nhiệm vụ. Cấp bách bởi vì. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài, những cơ sở SX áp dụng công nghệ truyền thống và công nghệ cơ khí thông thường không nâng được năng suất và chất lượng sản phẩm không đảm bảo được khả năng cạnh tranh ngay cả trong trường hợp có sự bảo hộ của nhà nước. Những cơ sở đó không thể đứng vững, phải thu hẹp hoặc đóng cửa. Sự thật đã diễn ra tại một số nơi trong thời gian qua. Về mặt quản lý KT- XH nếu không áp dụng rộng rãi các thành tựu của tin học và điện tử thì không thể nâng cao được trình độ quản lý lên ngang tầm thời đại, đòi hỏi cấp bách hiện nay của giao lưu kinh tế. Hiện nay một chính sách rất được quan tâm là, “ Đòn đấm công nghệ cao”. Từ sau thế chiến thứ 2 dựa và chính sách này mà một số nước như Nhật Bản, Triều Tiên và Đài Loan đã đuổi kịp các nước đi trước, vượt lên trong nhiều nghành công nghệ cao và đã tạo ra những kỳ tích kinh tế đáng kinh ngạc. Những biểu hiện của nền kinh tế đã hiện đại hoá được qui định bởi mức sống cao do cách mạng công nghệ, trình độ chuyên môn cao trong SX và năng suất lao động cao. Hiện đại hoá kinh tế còn biểu hiện ở sự ra tăng của vốn với những qui mô tích luỹ và đầu tư hiện đại, sự tham gia rộng rãi vào thị trường trên cơ sở một kết cấu hạ tầng hiện đại về giao thông vận tải và thông tin liên lạc. HĐH nền kinh tế càng không tách rời bộ máy hành chính quản lý hữu hiệu, một học vấn càng nâng cao của người lao động, một sự phổ cập rộng rãi các tri thức khoa học và đổi mới công nghệ. Bên cạnh HĐH nền kinh tế còn là quá trình HĐH xã hội và chính trị, đây là quá trình hoàn thiện cơ cấu XH, chuyên môn hoá các chức năng của cơ chế XH, thực hiện cuộc cách mạng tri thức thông qua việc phát triển thông tin, tăng chi phí cho giáo dục, đảm bảo sự ổn định chính trị, tập trung quyền lực vào nhà nước để tiến hành cải cách và đổi mới một cách triệt để. 3. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng: - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghị quyết đại hội lần thứ VII ban chấp hành trung ương đảng đã cụ thể hoá thành phần quan điểm chỉ đạo quá trình CNH, HĐH đất nước như sau: CNH, HĐH phải theo định hướng XHCN. Định hướng XHCN ở quá trình này được xác định bởi 4 nhân tố sau: - Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài CNH, HĐH là vì lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng XH. - Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại cho một XH trong đố nhân dân làm chủ. - CNH, HĐH được tiến hành nhanh dưới sự lãnh đạo của đảng, của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều hành và quản lý quá trình đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Phát triển một nền kinh tế nhièu thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng. Quan điểm thứ hai. Là giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài kết hợpkinh tế với quốc phòng an ninh, xây dựng nền kinh tế hướng mạnh SX đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả. Quan điểm này đòi hỏi quá trình CNH, HĐH phải được tiến hành trong điều kiện kinh tế mở, trong điều kiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài hướng mạnh và xuất khẩu. Mổt khác việc thực hiện nền kinh tế mở đó theo nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, bảo vệ chắc chắn quốc phòng an ninh. Đồng thời cũng không được coi nhẹ thị trường trong nước. ngược lại nhập khẩu, điều kiện về vốn công nghệ thị trường để mở rộng SX trong nước. Phải tìm cách thay thế hàng nhập khẩu bằng những sản phẩm SX trong nước. Quan điểm thứ ba. CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ toạ được vận hành theo thị trường có sự quản lý của nhà nước. Mặt khác, đây là một vấn đề mới so với CNH trước đây- cho rằng CNH chỉ là sự nghiệp của nhà nước, của các tổ chức quốc doanh, ngày nay chúng ta cho rằng đó là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành phần kinh tế. Nếu toàn XH không nhất trí quan tâm, không đề cao tinh thần tự chủ, tự cường, ra sức làm việc có hiệu quả, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô nếu mọi thành phần không coi đó là sự nghiệp của chính mình thì CNH, HĐH không thể thành công được Mặt khác, cần thấy rằng để CNH, HĐH thắng lợi, phải phát triển mạnh mẽ kinh tế nhà nước, làm cho nó thực sự giữ vai trò chủ đạo cả về tiềm lực kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế XH thực sự có vai trò hướng dẫn, chi phối nền kinh tế đất nước. Không như vậy sự nghiệp CNH không tránh khỏi chệch hướng. Không có điều kiện vật chất để nhà nước có thể quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm thứ tư là: Công cuộc CNH, HĐH phải lồng việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, muốn vậy trong mọi chủ trương, chính sách phải nhằm giải phóng mọi tiềm năng của con người, phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng trí lực, thể lực, có chính sách sử dụng nhân tài. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ môi trường. Quan điểm thứ năm là: Coi khoa học công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ tiên tiến tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở nhiều khâu quyết định. Quan điểm này đặt ra yêu cầu trong điều kiện quốc tế và sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay. Nếu không đánh giá đúng vai trò nền tảng của khoa học công nghệ, nếu không có những giải pháp , thì không thể đuổi kịp các nước, không thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu được. Do đó phải khai thác tối đa năng lực SX và công nghệ hiện có, tập trung vào những khâu quyết định có khả năng cạnh tranh sản phẩm, tranh thủ ở những khâu, những lĩnh vực công nghệ có điều kiện và ý nghĩa quyết định. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít vốn, tạo nhiều việc làm. Quan điểm thứ sáu là: CNH, HĐH phải lấy hiệu quả KT- XH làm tiêu chuẩn cơ bản. Để nâng cao hiệu quả kinh tế XH cần: - Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực SX hiện có. - Trong phát triển mới, cần ưu tiên qui mô vừa và nhỏ, công nghệ tiến tiến, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời chỉ xây dựng những công trình lớn thật cần thiết và có hiệu quả. - Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực các địa bàn trọng điểm. Đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước có chính sách hỗ trợ khó khăn. - Việc xác định các phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế XH quyết định. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN ĐƯỢC ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH CNH,HĐH. - Trang bị công cụ thích hợp theo hướng HĐH cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân, thông qua cách mạng khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong lịch sử quá trình CNH, HĐH đất nước khoa học công nghệ là một yếu tố quan trọng đã có những đóng góp đáng kể. Nhờ có những ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta đã đạt được một bước tăng trưởng quan trọng về tổng sản lượng lương thực và năng suất cây trồng. Trong khoảng thời gian 10 năm năng suất lúa bình quân đã tăng gấp rưỡi( năm 1980 là 20,8 tạ/ha, năm 1993 là 35 tạ/ ha). Trong công nghiệp nhờ đổi mới công nghệ một số ngành đã đứng vững cạnh tranh được trên thị trường và góp phần xuất khẩu. Do đặc điểm của mô hình công nghiệp hoá ở nước ta trước đây chịu ảnh hưởng không ít của mô hình CNH của Liên Xô không đi từ công nghiệp nhẹ theo đúng tuần tự thủ công lên nửa cơ khí và từ cơ khí nên tới công nghiệp nhẹ lần lượt từng bước sang công nghiệp nặng. Song trên thực tế công nghiệp nặng ở nước ta đã được ưu tiên phát triển hơn công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Do nhiều nguyên nhân nhất là do cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp kéo dài, do khó khăn về vốn và công nghệ nên nước ta đã không chuyển biến được bao nhiêu trong mô hình CNH của mình khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nổ ra. Kết quả là tình hình công nghiệp nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đến nay công nghệ tiên tiến nhập vào nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Đặc biệt là với một số ngành then chốt có tác động sâu rộng tới nền kinh tế như năng lượng, giao thông, hoá chất, xây dựng... Số công nghệ được sản sinh ra trong nước nhờ các hoạt động nghiên cứu triển khai còn ít, hàm lượng công nghệ và dịch vụ ở nông thôn còn ít và yếu ớt. Bên cạnh đó hiện tượng thiếu đội ngũ cán bộ đủ hiể biết về công nghệ và công tâm trong việc mua công nghệ của nước ngoài càng làm chậm quá trình đổi mới công nghệ. Sự khởi sắc tăng trưởng của nền kinh tế nước ta gần đây phần lớn nhờ vào thành tựu đổi mới cơ chế quản lý, về chính sách thương mại mở cửa chứ không phải dựa vào nền tàng vững bền của công nghệ công nghiệp. Sự lạc hậu về thế hệ công nghệ do đó khó có thể đuổi kịp các nước có trình độ cao về kinh tế và văn minh XH. Không tận dụng được các nguồn lực có lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh. Sản phẩm làm ra không có khả năng cạnh tranh do đó rất khó hội nhập với thị trường thế giới. Vì vậy, nếu cứ giữ mô hình CNH như trước thì nền kinh tế nước ta còn lâu mới thoát ra khỏi lạc hậu. Nắm vững được tình hình, để khắc những thiếu sót trên đây nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển khoa học và công nghệ làm cho khoa học và công nghệ đóng được vai trò nền tảng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị lần thứ 7 của ban chấp hành trung ương đã chỉ rõ những quan điểm cơ bản, mục tiêu và các chương trình trọng yếu phát triển khoa học công nghệ đến năm 2000 và những năm sau đó. Đồng thời chỉ rõ những chính sách và biện pháp lớn để toàn đảng toàn dân phấn đấu cùng thực hiện nhằm làm cho các mục tiêu và chương trình này thành hiện thực. - Về phương hướng và mục tiêu. Hội nghị chỉ rõ công nghệ gắn với quá trình CNH, HĐH ở trung tâm và dài hạn phải góp phần tích cực vào việc thực hiện cách đi kết hợp trên con đường phát triển, nhanh chóng thu hẹp dần khoảng cách về trình độ công nghiệp so với các nước phát triển trong khu vực. Khoa học và công nghệ tập trung đóng góp có hiệu quả vào quá trình quyết định ở các cấp quản lý nhà nước đến các doanh nghiệp, đảm bảo cho các chính sách, chủ trương, dự án đầu tư có căn cứ khoa học đem lại hiệu quả kinh tế XH rõ rệt. Phát triển một số ngành công nghiệp có triển vọng dựa trên công nghệ cao tạo tiền đề cho việc đâỷ nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn tiếp theo. Nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai công nghệ hiện đại trong nước, tạo được một đội ngũ cán bộ KHKT giỏi, có khả năng tiếp cận công nghệ thế giới. Phổ cập các loại hình công nghệ thích hợp trên địa bàn nông thôn, miền núi. Để thực hiện được những bước nhảy vọt về công nghiệp cần mạnh dạn tiếp cận, sử dụng công nghệ cao như: Vi điện tử, tin học, tự động hoá, sinh học, vật liệu mới... Xoá bỏ quan niệm coi đây là công việc của mọi hoạt động kinh tế XH và tập trung cao ở các dự án quốc gia. Phấn đấu để lực lượng khoa học và công nghệ trở thành một phần quan trọng ở các khu vực tập trung công nghệ cao như Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các quan điểm mục tiêu chính sách công nghệ nêu trên cần được hệ thống thành các chương trình, kế hoạch hoá và các biện pháp cụ thể mang tính khả thi, phục vụ có hiệu quả sự nghịêp CNH, HĐH đồng thời phát triển bản thân khoa học. Nhà nước áp dụng các chính sách đòn bẩy kỹ thuật để thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến thích hợp. Ưu đãi phần vốn dành cho việc nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Nhà nước cần sớm ban hành các qui chế kiểm soát các quá trình chuyển giao công nghệ theo các chỉ tiêu nghiêm ngặt về khoa học kỹ thuật và môi trường, ngăn chặn tình trạng biến nước ta thành bãi thải công nghệ lạc hậu của thế giới. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao động XH và điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư. Nội dung của công cuộc CNH đất nước hiện nay khong còn được hiểu theo nghĩa cũ nữa- CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Đó không chỉ là tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của SX công nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công nghệ, HĐH tất cả các ngành kinh tế quốc dân, tạo cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh đạt hiệu quả cao và lâu dài cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ là một xu thế tất yếu khách quan của nền kinh tế nước ta. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hâụ, SX nhỏ và phổ biến sang nền kinh tế có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hợp lý theo hướng CNH, HĐH từ một nền kinh tế tự nhiên ( Tự cấp, tự túc) sang nền kinh tế hàng hoá tương đối phát triển với thị trường nội địa thống nhất toàn quốc và mở rộng giao lưu trên thị trường thế giới. Cơ cấu kinh tế phải đa dạng để thích nghi được với những phát triển mới của cách mạng khoa học kỹ thuật
Tài liệu liên quan