Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai
miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả
nước xây dựng chủnghĩa xã hội (CNXH). Sựlựa chọn con đường đi lên CNXH ở
nước ta là sựlựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con đường TBCN
mà kiên định đi theo CNXH ? trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳdiệu,là thành
tựu của nhân loại.Bên cạnh đó lịch sửthếgiới đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm
vềsựsụp đổCNXH ởLiên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ởcác nước Đông Âu hơn 40
năm kểtừ1945.Đó là những nước đều đạt những thành tựu to lớn vềkhoa học kỹ
thuật,vềkinh tếxã hội.Trong khi,xã hội Việt Nam là một nước có nền kinh tếnghèo
nàn,lạc hậu ở Đông Nam á.Vốn là một xã hội phong kiến trong hơn 1000 năm,và chịu
ách thống trịcủa thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt Nam mang
tính chất thụôc địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ởtrạng thái kiệt
quệ, bộmáy nhà nước cồng kềnh,kém năng động, sáng tạo, hệthống vật chất kĩthuật
còn thô sơlạc hậu, đời sống người dân nghèo nàn.Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết
xây dựng đất nước theo con đường CNXH mà không phải con đường nào khác?
15 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự phát triển hình thái kinh tế xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai
miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở
nước ta là sự lựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con đường TBCN
mà kiên định đi theo CNXH ? trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳ diệu,là thành
tựu của nhân loại.Bên cạnh đó lịch sử thế giới đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm
về sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40
năm kể từ 1945.Đó là những nước đều đạt những thành tựu to lớn về khoa học kỹ
thuật,về kinh tế xã hội.Trong khi,xã hội Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo
nàn,lạc hậu ở Đông Nam á.Vốn là một xã hội phong kiến trong hơn 1000 năm,và chịu
ách thống trị của thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt Nam mang
tính chất thụôc địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt
quệ, bộ máy nhà nước cồng kềnh,kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật
còn thô sơ lạc hậu, đời sống người dân nghèo nàn...Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết
xây dựng đất nước theo con đường CNXH mà không phải con đường nào khác?
Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận các hình thái
kinh tế xã hội nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn. Thực tế
hơn 15 năm đổi mới , những thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã hội đã chứng
minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng
đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất
yếu khách quan.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế xã hội
1-Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định , với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2- Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên
Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Các hình thái kinh
tế – xã hội vận động và phát triển do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá
trình tự nhiên của sự phát triển. C Mác viết : “ Tôi coi sự phát triển của những hình
thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” , tức là muốn nói đến quy luật
khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự phát triển của quá trình sản xuất vật
chất , xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất , do tính tất yếu kinh tế quy định. Các quy luật xã hội chính là hiện thân của các
quy luật tự nhiên được con người sử dụng nó để kiến tạo nên xã hội loài người.
Tiến trình lịch sử là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự phát triển
đứt đoạn và liên tục. Trong quá trình sản xuất , con người có những quan hệ với nhau,
đó chính là quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng
sản xuất quy định. đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác
như : chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức
độ nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ sản xuất
có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới thông qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi thì toàn bộ các
quan hệ sản xuất khác cũng thay đổi. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các
quan hệ xã hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế –
xã hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết:”Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào
những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của
những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có được những cơ sơ vững chắc
để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử –
tự nhiên.”
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang
lịch sử khác nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng phương
thức sản xuất nhất định. Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ trải qua 5
hình thái kinh tế – xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao. Đó chính là quá trình tự nhiên
của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục của lịch sử. Tuy nhiên, đối với mỗi
nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng thì một nước nào đó,
một dân tộc nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ xã hội nhất định. Sự khác nhau về
trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình lịch sử – tự nhiên, còn đối
với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc thang ”nhất định. V.I.Lênin viết:
“ …tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại
trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm
hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.
Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCNđã chứng minh tính
đúng đắn, khoa học của hình thái kinh tế – xã hội và lý luận về khả năng “bỏ qua”
một chế độ xã hội nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chúng ta có thể rút ra
một số điểm có ý nghĩa phương pháp luận sau:
Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những
nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến đổi
xã hội học thành một khoa học thực sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử.
Từ đó có một cách nhìn đúng đắn, thấy được vai trò thực sự của LLSX, QHSX, mối
quan hệ biện chứng giữa chúng và các mối quan hệ khác trong quá trình phát triển xã
hội.
Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động
và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để
nghiên cứu xã hội và chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô.
Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của Đảng Cộng
Sản. là cơ sở lý luận cho việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm quốc gia và mỗi
địa phương nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của các hình thái
kinh tế – xã hội, của các giá trị văn hoá, khoa học , kĩ thuật và của chính bản thân thế
hệ con người. Từ đó giúp chúng ta không nóng vội chủ quan, không đốt cháy giai
đoạn, biết kế thừa những thành tựu chung của văn minh nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt nguyên lý đó,
vận dụng một cách chủ động sáng tạo và kiến thức tổng quát của nhiều môn khoa học
khác vào công việc hàng ngày của mỗi người, mỗi địa phương phải nhìn nhận các vấn
đề trong dòng chảy liên tục của nó.
Chương II Sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
I- Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
Từ hình thái kinh tế – xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác có
một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu
hiện khác nhau, đó là “ thời kỳ quá độ”.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mình mà các nước các dân tộc sẽ
thực hiện sự quá độ lên CNXH dưới những hình thức, bước đi khác nhau, do trình độ
xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành 3 loại nước tương ứng với 3 kiểu quá độ:
Những nước TBCN phát triển cao
Những nứơc đạt trình độ phát triển TBCN ở mức trung bình thấp
Những nước chưa trải qua giai đoạn TBCN của sự phát triển lịch sử
Nước ta thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan quy định, nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu của
lịch sử. Để “nhận dạng”con đường đi lên của nước ta, trước hết cần phân tích đầy đủ
và chính xác điểm xuất phát từ đó nước ta quá độ lên CNXH. Để xác định con đường
đi lên của mình, cụ thể trong điều kiện hiện nay chính là thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì điều cần thiết là phải xuất phát từ thực trạng
kinh tế xã hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm LLSX và QHSX ở nước ta để lựa
chọn đúng hình thức kinh tế cho hiệu quả, xác định rõ những bước đi cụ thể theo mục
tiêu đã chọn. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hoá và Nghị quyết Trung ương 6(lần1)
khoá VIII về kinh tế gần đây đã khẳng định cần phải đẩy mạnh việc phát huy nội lực
kinh tế, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, mạnh dạn
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Đó chính là những nghị quyết sát thực
với cuộc sống, đã khuyến khích QHSX phát triển trên cơ sở phù hợp với trình độ của
LLSX ở nước ta hiện nay.
II- Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta
Định hướng XHCN ở nước ta: Đúng hay chệch?
Trước đây, sau mấy năm khôi phục kinh tế và thực hiện cải tạo XHCN, công
cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta có thể nói xuất phát từ khái niệm đơn giản,
duy ý chí về CNXH. Chúng ta tưởng rằng có thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng
của CNXH sau khi tiến hành quốc hữu hoá, công hữu hoá những tư liệu sản xuất cơ
bản mà không cần biết nền sản xuất xã hội hoá ấy thực hiện như thế nào.
Dần dần từ thực tiễn khủng hoảng và trì trệ về kinh tế chúng ta mới hay rằng:
không thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH trên cơ sở một nền sản xuất
xã hội hoá theo kiểu hình thức, một nền sản xuất gọi là”xã hội hoá”nhưng trình độ của
LLSX còn rất thấp, còn xa mới đạt tới xã hội hoá được coi như một tất yếu kinh tế.
Mức độ thực hiện những đặc trưng của CNXH không thể áp đặt theo ý muốn chủ
quan mà phải căn cứ vào trình độ thực tế của LLSX và năng suất lao động trong từng
thời kỳ lịch sử cụ thể. Nghĩa là: chỉ có thể thực hiện từng bước những đặc trưng của
CNXH.
Với ý nghĩa trên, định hướng XHCN chính là sự quay trở về với luận điểm sau
của Lênin:” … danh từ nước cộng hoà xô viết XHCN có nghĩa là chính quyền xô viết
quyết tâm thực hiện bước chuyển lên CNXH, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã
thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ XHCN”. Bởi vậy, quá trình định hướng
XHCN trên đất nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH – cốt
lõi của quá trình xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Để có được nền móng của CNXH,
chúng ta chỉ có thể rút ngắn cái phải trải qua theo quy luật lịch sử tự nhiên, chứ không
thể bỏ qua cái phải trải qua. Cái phải trải qua ấy là gì? Là phát triển mạnh LLSX , là
xã hội hoá sản xuất trong thực tế thông qua các quá trình chuyển hoá từ nền kinh tế
nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ mô hình nông thôn sang mô hình đô thị,
từ tổ chức cộng đồng xóm sang cộng đồng dân tộc, quốc tế…Cũng vì vậy, quá trình
định hướng XHCN ở nước ta tất yếu phải là một quá trình đan xen giữa nhiệm vụ trực
tiếp và gián tiếp xây dựng CNXH, là quá trình còn nhiều mâu thuẫn, nghịch lý, bất
công mà tạm thời phải chấp nhận, và cuộc vận động của lịch sử CNXH trên thực tế sẽ
xoá bỏ dần những mâu thuẫn, nghịch lý, bất công ấy. Sự định hướng XHCN còn chứa
đựng một vấn đề cơ bản không thể né tránh. Đó là thời kỳ “ai thắng ai”. Cho nên,
không chỉ có khả năng đi đúng hướng mà còn có khả năng đi chệch hướng. Chệch
hướng là một nguy cơ có thật. Quá trình đi theo con đường XHCN quyết không phải
là sự chuyển động phẳng lặng theo một chiều mong muốn, đặc biệt cơ chế thị trường
được coi là phương tiện khách quan để xây dựng CNXH. Nó là phương tiện để phát
triển kinh tế, nhưng sự phát triển ấy lại tiềm ẩn nguy cơ CNXH bị huỷ hoại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã
xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Nói định hướng
XHCN nghĩa là nói mục tiêu chúng ta đạt tới. Đó cũng là hành lang của sự phát triển ,
sự sáng tạo.
Cương lĩnh vạch ra những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình thực hiện những
đặc trưng của CNXH trên đất nước ta. Những phương hướng đó vừa mang tính bảo
đảm không chệch hướng XHCN, vừa quán triệt tinh thần đổi mới cho phép không lặp
lại những sai lầm cũ, tinh thần từng bước thực hiện những đặc trưng của CNXH.
Chẳng hạn, trong cách mạng QHSX, sự định hướng XHCN có nghĩa là thiết lập từng
bước QHSX XHCN phù hợp với sự phát triển của LLSX. Do đó,QHSX XHCN sẽ
được hình thành từ thấp đến cao, rồi sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay đã
cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội. Sau 12
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã thu được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Đất nước ta, nhờ đó có thể chuyển sang
thời kỳ mới : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận định chung về quá trình định hướng XHCN sau 12 năm đổi mới Đảng ta khẳng
định: về cơ bản việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua là
đúng đắn, đúng định hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có một số
khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở mức độ này hay mức độ khác.
Nhận định đó là đúng đắn và sáng suốt , phản ánh tinh thần đầy trách nhiệm của Đảng
ta đối với vận mệnh của dân tộc, của hàng triệu quần chúng nhân dân lao động – nền
tảng của chế độ ta.
Từ đó, một mặt cổ vũ cho nhân dân ta phát huy tinh thần tự lực tự cừơng để
đưa đất nước ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu,mặt khác đòi hỏi mọi người phát huy
tinh thần trách nhiệm khắc phục mọi trở ngại trên con đường đi tới một chế độ do
nhân dân lao động làm chủ.
Như vậy con đường đi lên CNXH là con đường đúng đắn mặc dù còn nhiều
khó khăn trước mắt nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta không chịu lùi
bước trước bất cứ khó khăn , thử thách nào.
Chương III Quá trình đi lên CNXH ở nước ta
Thực trạng và giải pháp
I – Thực trạng quá trình đi CNXH ở nước ta
Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay đã
cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội. Sau 12
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã thu được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng.
Tuy nhiên trong thực tiễn, bên cạnh thừa nhận những thành tựu đáng mừng ,cũng có
những vấn đề cần xem xét một cách nghiêm túc. Chẳng hạn :
Sự tăng trưởng GDP ở nước ta vừa qua là nhanh hay chậm? Theo tính toán chỉ
cần đưa vào nền kinh tế của ta 1 tỷ USD thôi thì mức tăng trưởng có thể đạt 6 %. Vậy
sự tăng trưởng GDP vừa qua ở ta chủ yếu do đâu? Do đường lối chính trị hay do hoạt
động kinh tế mà gốc rễ là quản lý tốt mang lại?
Sự tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các vùng có chênh lệch lớn. Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh có mức tăng trưởng từ 15% trở lên, các vùng khác có mức
tăng trưởng 7% liên tục mấy chục năm, nhưng do sự phát triển không đều giữa hai
vùng trong nước mà đang đứng trước nguy cơ một nước chia thành hai miền “phát
triển và lạc hậu”
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với sự chênh lệch về thu nhập ngày càng lớn. Kinh
tế tăng trưởng nhưng mức sống thực tế của một bộ phận hưởng lương giảm 1\3. Gạo
xuất khẩu đạt mức cao nhất, nhưng mức sống nông dân quá thấp so với công nhân và
người dân thành thị( năm 1995, thu nhập của người dân đồng bằng sông Cửu Long là
200USD/năm trong khi ở TP Hồ Chí Minh là 920USD/năm). Điều đáng quan tâm là
sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng lớn.
Đến nay mức thâm hụt buôn bán tăng gấp đôi năm 1995 và lên tới 2,3 tỷ USD.
Nguyên nhân do khối lượng nhập khẩu thiết bị và hàng tiêu dùng tiếp tục tăng.
Sở hữu toàn dân về đất đai trên thực tế đang bị tư nhân hoá. Diện tích đất nông
nghiệp tính theo đầu người giảm 300m^2 trong 10năm.
1/3 vốn đầu tư vào dịch vụ. Khuynh hướng đầu tư của nước ngoài là nhằm thu
hồi vốn nhanh, khai thác tài nguyên nhiều còn kỹ thuật tiên tiến không có là bao.
Vốn huy động trong dân còn ở tỷ lệ quá thấp: 7% GDP (trong khi Thái Lan
37%; Philippin 15%) Vốn đầu tư trong nước chủ yếu vẫn là vốn của nhà nước.
“Chủ nghĩa tiêu thụ” phát triển mạnh mẽ trong giới trung, thượng lưu. Sự lệ
thuộc của hệ tư tưởng vào tính thực dụng kinh tế có xu hướng ngày càng tăng.
Tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, tệ nạn xã hội không giảm.
Trong các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hóa có
nhiều chỉ tiêu phản ánh không rõ những bước đi để kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
thực sự là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
II – Từng bước khắc phục khó khăn trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta
1- Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá(CNH), hiện đại hoá(HĐH) đất nước.
CNH, HĐH ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, tạo
nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của nền kinh tế. Trong
quá trình tiến hành CNH,HĐH đất nước ngoài việc lấy nội lực làm nhân tố quyết định
đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế tiếp thu tối đa nguồn ngoại lực, coi đây là nhân tố
quan trọng để củng cố vững chắc độc lập dân tộc, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước thành công… để đưa đất nước ngày càng hiện đại hơn, văn minh hơn.
Mở rộng hợp tác quốc tế trong sự nghiệp CNH, HĐH nhằm đáp ứng nhu cầu :
Thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
Do nền kinh tế của chúng ta xuất phát thấp. LLSX đan xen của nhiều loại trình độ,
trong đó chiếm đại bộ phận là kỹ nghệ và công nghệ cũ kỹ, do đó thu hút vốn để thúc
đẩy LLSX phát triển, nhập khẩu máy móc hiện đại, mở rộng thị trường…
Chuyển giao máy móc, công nghệ, kỹ thuật hiện đại
Đẩy mạnh buôn bán thương mại giữa các nước
Học tập kinh nghiệm và cách thức quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới
Tạo môi trường ổn định để phát triển
Tiếp thu văn hoá nhân loại để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc
Hiện nay xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoáLLSX của nhân loại do cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ mới hiện nay đem lại, đang chứa đựng những phương
tiện, đó là những điều kiện vật chất của những QHSX cao hơn mà những nước lạc hậu
chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có thể tìm thấy và vận dụng vào nước mình
thông qua sự giao lưu hợp tác quốc tế dưới nhiều hình thức khác nhau, từ đó tận dụng
nguồn công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý. Từ đó các quốc gia chậm phát triển vẫn
có thể bước vào con đường phát triển “rút ngắn” ngay cả khi CNTB còn chưa bị đánh
bại tại quê hương của nó và thậm chí khi thiếu cả sự giúp đỡ trực tiếp của một nước
XHCN tiên tiến. Khi các quốc gia chậm phát triển đi sau nhận thấy sản xuất TBCN
còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đến mức độ nhất định thì các nước đi theo con
đường XHCN lại không có lý do gì không giám sử dụng nó như một thành phần kinh
tế nhiều thành phần. Tất nhiên là dưới sự dẫn dắt của thành phần kinh tế nhà nước
theo định hướng XHCN .
2-Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình
thức sở hữu
Phải tuỳ theo trình độ phát triển của LLSX mà thiết lập hình thức QHSX sao
cho phù hợp. Phải chống tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư hữu và xác
lập ngay chế độ công hữu về TLSX với hình thức và quy mô quá lớn. Xuất phát từ
một nền kinh tế lạc hậu, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành
phần kinh tế, phải phát huy tích cực cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kể cả thành phần
kinh tế tư nhân TBCN nhưng phải xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng lớn mạnh để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải phát triển
kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước.
Phải thực hiện hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế làm chủ yếu.
PHẦN KẾT LUẬN
Ở nước ta, quá trình đi lên con đường XHCN là quá trình đầy thách thức khó