Từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, chế độ chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch của chủ nghĩa Mác -Lênin, của chủ
nghĩa xã hội càng có dịp vu cáo, xuyên tạc hòng bác bỏ chủ nghĩa Mác -Lênin, trong
đó học thuyết về hình thái kinh tế -xã hội là một trong đIểm lý luận bị công kích từ
nhiều phía, bi xuyên tạc và vu cáo một cách trắng trợn.
Sự công kích đó của kẻ thù có cả ở ngoài nước và trong nước. Alvin Toffler nhà
tương lai học với bộ sách gồm 5 tác phẩm:cú sốc tương lai, lán sóng thứ 3, thăng trầm
quyền lực, chiến tranh và chống chiến tranh,tạo dựng một nên văn minh mới, đã đưa ra
một cách tiếp cận mới:tiếp cận theo nền văn minh.Ông cho rằng:”Cách tiếp cận theo
nên văn minh” đứng ở đIểm cao hơn cách tiếp cận hình tháI, vì đã xuất phát từ nền văn
minh hậu công nghiệp, trong khi tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội chỉ dựa trên nền văn
minh công nghiệp.
Do đó hơn lúc nào hết, những người cách mạng phải đấu tranh với các quan đIểm
thù địch nhằm bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết
Mác về hình thái kinh tế-xã hội nói riêng .
Mục đích của tiểu luận này là em muốn làm rõ hơn về mặt học thuyết Mác về hình
tháI kinh tế –xã hội.
Kết cấu tiểu luận gồm có 3 phần:
PhầnI:Học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội.
Phần II:Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã
hội.
Phần III:Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
12 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3401 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tính khoa học và cách mạng
của học thuyết Mác về hình thái
kinh tế-xã hội
a. Lời mở đầu
Từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, chế độ chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ
nghĩa xã hội càng có dịp vu cáo, xuyên tạc hòng bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, trong
đó học thuyết về hình thái kinh tế -xã hội là một trong đIểm lý luận bị công kích từ
nhiều phía, bi xuyên tạc và vu cáo một cách trắng trợn.
Sự công kích đó của kẻ thù có cả ở ngoài nước và trong nước. Alvin Toffler nhà
tương lai học với bộ sách gồm 5 tác phẩm:cú sốc tương lai, lán sóng thứ 3, thăng trầm
quyền lực, chiến tranh và chống chiến tranh,tạo dựng một nên văn minh mới, đã đưa ra
một cách tiếp cận mới:tiếp cận theo nền văn minh.Ông cho rằng:”Cách tiếp cận theo
nên văn minh” đứng ở đIểm cao hơn cách tiếp cận hình tháI, vì đã xuất phát từ nền văn
minh hậu công nghiệp, trong khi tiếp cận hình thái kinh tế-xã hội chỉ dựa trên nền văn
minh công nghiệp.
Do đó hơn lúc nào hết, những người cách mạng phải đấu tranh với các quan đIểm
thù địch nhằm bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết
Mác về hình thái kinh tế-xã hội nói riêng .
Mục đích của tiểu luận này là em muốn làm rõ hơn về mặt học thuyết Mác về hình
tháI kinh tế –xã hội.
Kết cấu tiểu luận gồm có 3 phần:
PhầnI:Học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội.
Phần II:Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã
hội.
Phần III:Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
B.Phần Nội Dung
I học thuyết mác về hình tháI kinh tế -xã hội .
1.Quan niệm của các nhà xã hội học,triết học trước Mác
Trước Mác, các nhà xã hội học, triết học đã không thể giải thích một cách khoa học
sự vận động theo quy luật khách quan của lịch sử hay vấn đề phân kỳ lịch sử xã hội
v.v…Chẳng hạn:Nhà xã hội học Italia là Vicô(1668-1744)đã phân chia các thời kỳ lịch
sử như phân chia các giai đoạn của một vòng đời:thơ ấu, thanh niên và tuổi già. Nhà
triết học duy tâm Đức Hêghen(1770-1831)lại phân chia lịch sử loài người thành ba
thời kỳ chủ yếu là thời kỳ phương đông, thời kỳ cổ đại và thời kỳ Giecmani.Nhà xã
hội chủ nghĩa không tưởng Pháp Phuriê(1772-1831)đã chia tiến trình lịch sử thành bốn
thời kỳ:thời kỳ mông muội, thời kỳ dã man, thời kỳ giả tưởngvà thời kỳ văn minh.Nhà
dân chung học Mỹ Herry Mooc-Gan(1818-1881)lại phân chia lịch sử thành ba thời kỳ
chính:thời kỳ mông muội , thời kỳ dã man và thời kỳ văn minh.
Những cách phân kỳ như vậy, không đem lại cách nhìn khoa học về
một xã hội cụ thể.
2.Quan điểm của Mác
Đến Mác,dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá trình lịch
sử,Mác đã nêu ra quan đIểm duy vật về lịch sử và hình thành học thuyết về hình tháI
kinh tế xã hội với những nội dung chính sau đây:
+ .Thật vậy,sự sản xuất xã hội là hoạt động đặc trưng riêng có của con người
và xã hội loài người,đó là cái phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa xã hội loàI người và
loàI súc vật.Sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất,sản xuất tinh thần và sản xuất ra
bản thân con người.Trong hiện thực,ba quá trình này của sản xuất không tách biệt với
nhau ,trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng, là cơ sở của sự tồn tại và phát
triển xã hội.Và xét đến cùng thì sản xuất vật chất quy đình và quyết định toàn bộ đời
sống xã hội.
+Quan đIểm về mối quan hệ biện chứng giưa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.Mác viết:”Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản
xuất.Do có được những lực lượng sản xuất mới,loài người thay đổi phương thức sản
xuất,cách kiếm sống của mình ,loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của
mình.Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa,cái cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.Như vậy theo Mác,lực lượng sản xuất
xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội.
+Quan đIểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng.Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ,cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,mặc dù kiến trúc thượng tầng có khả năng
tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.Mác viết:”không thể lấy bản thân những quan hệ
pháp quyền cũng như các hình thái nhà nước,hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của
tinh thần của con người,để giải thích các quan hệ và hình thái đó,mà trái lại,phải thấy
rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật
chất…Nếu ta không thể nhận định được về một con người mà chỉ căn cứ vào chính ý
liến của người đó đối với bản thân,thì ta cũng có thể nhận định được về một thời đại
đảo lộn như thế mà chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.Trái lại,phải giải thích ý thức
ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất,bằng sự sung đột hiện có giữa các lực
lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”
Từ những quan đIểm cơ bản trên,Mác đi đến kết luận hết sức khái quát: “Trong
sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất
yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ-tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ
này phù hợp với một chỉnh độ nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến thức thượng tầng pháp lý và chính trị và những
hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó ”.
Như vậy, hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ
sản xuất ấy.
C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nhìn thấy động lực của lịch sử nằm ngay trong hoạt
động thực tiễn vật chất của con người. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là quan
niệm duy vật biện chứng được cụ thể hoá trong việc xem xét đời sống xã hội. Động
lực của lịch sử không phải do một lực lượng thần bí nào, mà chính là hoạt động thực
tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan. Hoạt động thực tiễn đó
lại xuất phát từ cái sự thật hiển nhiên: “Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và
mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước
khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học…”
Học thuyết Mác về kinh tế- xã hội không chỉ xác định các yếu tố cấu thành hình
thái kinh tế xã hội, mà còn xem xét xã hội trong quá trình biến đổi và phát triển không
ngừng. C.Mác viết: “tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là quá
trình lịch sử-tự nhiên”.Điều này đã được V.I.Lênin giải thích:chỉ có đem qui những
quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên.
II Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội
Khi phân tích quy luật vận động của một hình thái nhất định,học thuyết đã chỉ ra
những mâu thuẫn bên trong và sự vận động của mâu thuẫn này cuối cùng dẫn đến sự
chuyển hoá từ một hình thái kinh tế-xã hội này sang một hình thái kinh tế-xã hội
khác.Do đó,một mặt khẳng định tất yếu của trật tự hiện thời(trật tự của chế độ tư bản
chủ nghĩa),mặt khácMác cũng chứng minh luôn cả tính tất yếu của một chật tự cao
hơn mà hình thái kinh tế –xã hội tư bản chủ nghĩa nhất thiết phải chuyển sang:Hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.Đây chính
là vấn đề mà các nhà lý luận của giai cấp tư sản luôn luôn tìm cách tấn công, phản bác
hoặc lôi kéo, làm ngơ sang một hướng khác.
Những người muốn phủ định học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội nêu ra
một nhận định là cách tiếp cận hình thái đã lạc hậu so với thời cuộc và họ muốn thay
vào đó cách tiếp cân bằng các nền văn minh.Họ cho rằng cách tiếp cận hình thái chỉ
nhấn mạnh yếu tố quan hệ sản xuất và vấn đề giai cấp, mà không thấy biểu hiện phổ
biến hơn, khái quát hơn là nền văn minh..Theo họ,lịch phát triển của xã hội loài người
không phải do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới , tiến bộ và quan hệ sản xuất lỗi
thời thể hiên ra bằng đấu tranh giai cấp dẫn đến cách Mạng xã hội như Mác và
Angghen nói, mà được quyết định bởi các nền văn minh.Đó là văn minh công nghiệp,
văn minh nông nghiệp và văn minh hậu công nghiệp.
Bản thân Alvin Toffler đã nói rằng:làn sóng văn minh mới sẽ trực tiếp cải tạo lại
toàn bộ xã hội,không còn phải thông qua đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, không
còn đấu tranh giữa những người bị áp bức bóc lột và kẻ bị áp bức bóc lột nữa, loài
người không cần đến cách mạng xã hội để tiến lên nữa,cách mạng khoa học và công
nghệ sẽ thay thế cho chức năng của cách mạng xã hội để thay đổi bộ mặt xã hội.Ông
quy mọi cuộc đấu tranh xã hội vào cuộc đấu tranh giữa các làn sóng văn minh.Ông
khái quoát rằng : “Từ nước này sang nước khác, sự xung đột giữa các quyền lợi của
làn sống thứ nhất và làn sóng thứ hai nổ ra khắp nơi,dẫn dến khủng hoảng và biến
động chính trị , đình công ,nổi loạn đảo chính và chiến tranh…”, “các xã hội lán sóng
thứ hai, tư sản hay cộng sản, Bắc hoặc Nam tất cả đều giống nhau”, hoặc ông cho
rằng: “những gì đang xảy ra hiện nay không phải là cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa
tư bản, nhưng là của chính xã hội công nghiệp dù hình thức chính trị của nó là gì đi
nữa.Chúng ta đang chịu đồng thời cùng một lúc cách mạng tuổi trẻ,cách mạng tình dục
, cách mạng chủng tộc , cách mạng thuộc địa, cách mạng kinh tế và cuộc cách mạng
công nghiệp nhanh chóng nhất, sâu đậm nhất trong lịch sử.Chúng ta đang sống trong
cuộc đại khủng hoảng của chế độ công nghiệp.Nói tóm lai ,chúng ta đang ở giữa cuộc
cách mạng siêu công nghiệp”.Như vậy ôngAlvin Toffler đã tuyệt đối hoá cách tiếp cận
theo nền văn minh nhằm hạ thấp, đi đến loại bỏ cách tiếp cận hình thái kinh tế –xã hội
của Mác.Nhưng thực chất ông muốn chứng minh sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ tư
bản và lảng tránh vấn đề cơ bản nhất :cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp vô
sản lãng đạo nhằm lật đổ giai cấp tư sản ,chế độ tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp không có áp bức và bóc lột.
Song chúng ta có thể nói một cách khác quan rằng :Phương pháp tiếp cận bằng các
nền văn minh(văn minh nông nghiệp ,văn minh công nghiệp và văn minh hậu công
nghiệp) cũng có những giá trị nhất định ,nhưng cách tiếp cận này đã phạm sai lầm căn
bản là chỉ coi trình độ phát triển khoa học –công nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố
quyết định duy nhất ,bỏ qua vai trò của quan hệ sản xuất, các mối quan hệ giai cấp và
đấu tranh giai cấp và do đó không thấy được một cách đầy đủ, nhất quán các mặt phức
tạp của mỗi xã hội , từ các vấn đề của hạ tầng đến thượng tậng, từ vấn đề kinh tế đến
vấn đề tinh thần, chính trị , tôn giáo v.v:vì vậy ,xét theo góc độ khoa học không thể
đem phương pháp tiếp cận theo các nền văn minh thay thế học thuyết Mác về hình
thái kinh tế-xã hội để phân tích lịch sử và nhận thứ các vấn đề xã hội.Thật vậy:Trong
các tác phẩm cuả mình ,ông Alvin Toffler luôn đề cao đến quá trình phát triển của
khoa học và công nghệ , đặc biệt là ông đã có dự báo về lĩnh vực này.Ông dự báo về
những ngành khoa học mũi nhọn của thế kỉ 21:điện tử ,tin học,sinh học phân tử,đại
dương học,kỹ thuật hạt nhân và khoa học vũ trụ.Ông chỉ ra những ngành công nghiệp
xương sống của nền văn minh thứ ba : điện tử ,máy tính,hoá dầu ,vật lý chất rắn …Đặc
biệt ông chỉ ra vai trò của trí tuệ ,của trí thức trong tiến bộ kỹ thuật ,trong quản lý kinh
tế trở thành đặc trưng của nền văn minh mới.Từ những dự báo về lĩnh vực khoa học
công nghệ ,ông đã dự báo về lĩnh vực tổ chứ sản xuất, lưu thông phân phối và tiêu
dùng của xã hội tương lai .Nhưng cách tiếp cận của ông,không thể cho phép giải thích
được một thực tế là :hiện nảy trên thế giới có khoảng 30 nước phát triển, còn lại trên
100 nước chậm phát triển thuộc thế giới thứ ba, thậm chí có khoảng30 nước rất nghèo
khổ.
Ngay ở trong một nước được ông coi là xã hội chưa những thành tựu văn minh
nhất của tiến bộ xã hội là nước Mỹ cũng có sự phân cực sâu sắc.Theo thống kê của
Cục Liên Bang Mỹ năm 1995 ,thì có 1% số người giầu nhất giữa thập kỷ 70 chiếm giữ
20% của cải xã hội , nhưng đến năm 1992 đã chiếm giữ đến 42% .Số người sống dưới
mức nghèo khổ từ 24,5 triệu năm 1978, đến năm 1995 đã lên tới 39,3 triệu người.Sự
phân hoá giàu nghèo, cảnh người lao động sống trong các ổ chuột, sống bằng nhờ trợ
cấp thất nghiệp , mà trợ cấp này ngày càng giảm đi ở Mỹ đã là những phản biện sống
động cho những lập luận của ông Alvin Toffler về cách tiếp cận theo “nền văn
minh”.Và cách tiếp cận như vậy thì làm sao mà giải thích được một thực tế là giai cấp
công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, hiện đang bị bóc lột sức lao
động ngày càng tinh vi hơn.Thự tế là tỷ suất giá tri thặng dư(m/v) ngày càng tăng lên.ở
Mỹ năm 1977 tỷ suất giá tri thặng dư là 236,7% , thì năm 1990 tăng lên 320%; ở Nhật
Bản năm 1978 là 205%, thì năm1993 tăng lên 312%.
Chúng ta biết rằng,, trước sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, của nên văn
minh nhân loại , thì thế kỷ 21 xã hội có nhiêù sản phẩm hơn, khả năng thoả mãn nhu
cầu con người ngày càng lớn hơn.Nhưng trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn không ít
nghèo khổ, đói rét không được tiêu dùng các sản phẩm .Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ dù kì diệu đến đâu, chỉ riêng nó, không thể xoá bỏ được sự bất công
đó.Muốn xoá bỏ sự bất công trong phân phối giưã người giàu và người nghèo ở bất kỳ
quốc gia nào dù giàu hay nghèo, thì không thể tránh khỏi những cuộc đấu tranh xã hội,
những cuộc cách mạng xã hội.Dĩ nhiên, ở thế kỉ 21 các cuộc cách mạng xã hội có thể
có nội dung và hình thức mới, phù hợp với điều kiện lịch sử lúc đó.Nhưng dù thế nào
đi chăng nữa, thì cuộc cách mạng xã hội, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn là
tất yếu lịch sử và bạo lực với nội dung đổi mới vẫn đóng vai trò là bà đỡ cho sự ra đời
của một xã hội mới:xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
III . Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đã kêt luận:hình thái kinh tế xã hội TBCN
nhất định sẽ được thay đổi bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự thay
thế này là một quá trình lịch sử tự nhiên, sự thay thế đó được thực hiện thông qua cách
mạng XHCN mà hai tiền đề quan trọng nhất là:sự phát triển của LLSX và sự trưởng
thành của giai cấp vô sản.
Quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con
đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh
tế xã hội nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Đảng ta lựa chọn CNXH làm con đường phát triển của đất nước là hoàn toàn đúng
đó là cuộc hình thái kinh tế xã hội tốt đẹp, đưa lại độc lập thực sự cho đất nước, giải
phóng thực sự con người đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ xã hội , làm
chủ đất nước, mang lại ấm lo hạnh phúc .
+Con đưòng cách mạng XHCN mà đảng ta đã lựa chọn phù hợp với những gì đã có
trong lịch sử, phù hợp với thực tiễn của cách mạng nước ta và không hề trái với quy
luật phát triển của xã hội loài người.
+ Nhìn vào lịch sử phát triển của xã hội loài người, chúng ta thấy không phải mọi
nước đều phải tuần tự trải qua các chế độ cộng sản nguyên thuỷ,nô lệ, phong kiến, tư
bản. Trong thời đai phong kiến có nước còn ở trình độ bộ tộc, nhưng do nhiều nhuyên
nhân đã phát triển thành chế độ phong kiến. Trong thời đại TBCN, có nước còn ở trình
độ thấp cũng đã đi vào quỹ đạo phát triển TBCN. Cho nên, trong thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, chúng ta hoàn toàn có thể đưa đất nước
tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN.
+ Đất nước tiến lên CNXH là con đường phù hợp với tực tiễn của cách mạng nước
ta. Chúng ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Giữa cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân với cách mạng XHCN không hề có bức tường ngăn cách. Ngay
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng ta lãnh đạo đã chứa đựng nhiều
nhân tố XHCN. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân tố dân tộc và giai cấp gắn bó chặt
chẽ với nhau . Lòng yêu nước của nhân dân là yêu nước XHCN, mặt trận dân tộc
thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân đều dựa trên nền tảng liên minh công nông;
quân đội nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc sâu sắc…
+ Lẽ nào lịch sử lại chấp nhận một sự ngược đời là sau cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đã thành công lại xoá bỏ chính quyền dân chủ nhân dân, thiết lập nên chính
quyền giai cấp tư sản, chuyển toàn bộ TLSX và tài nguyên của đất nước vào tay các
ông chủ tư bản, biến chế độ ta thành chế độ TBCN và nhân dân ta thành kẻ nô lệ làm
thuê.
+ Trước sau như một, Đảng ta nhân dân ta, quyết tâm phấn đấu tiến lên phía trước,
xây dựng một chế độ xã hội thực sự có tự do, ấm no hạnh phúc và hoà bình, nhất quyết
không đi vào CNTB, một chế độ mà lịch sử đã lên án.
Quá trình phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, phụ
thuộc vào quy luật khách quan độc lập với ý muốn của con người. Nhưng, con người
lại hoàn toàn không bất lực trước quy luật . Con người có thể nhận thức được quy luật
khách quan và tạo ra đIều kiện để quy luật phát huy tác dụng có lợi cho mình. Đó là
tính năng động chủ quan của ý thức xã hội của con người.
C.Kết LUận
Trong những năm qua, các nhà khoa học Việt Nam đã tích cực nghiên cứu toàn diện
chủ nghĩa Mác –Lênin và tiếp tục khẳng định những giá tri bền vững của học thuyết
hình thái kinh tế -xã hội , học thuyết giá tri thặng dư, học thuyết sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân và nội dung thời đai ngày nay.Đối với học thuyết về hình thái kinh
tế- xã hội, các nhà khoa học Việt Nam thống nhất khẳng định: “Học thuyết về hình
thái kinh tế-xã hội của Màc ra đời là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về
lịch sử loài người, cung cấp phương pháp luận khoa học để phân tích quá trình hình
thành, vân động và phát triển của phương thức sản xuất. Ngày nay các kiến thức khoa
học và thực tiễn phát triển xã hội phong phú, đa dạng cần được nghiên cứu để “thêm
da, thêm thịt” cho học thuyết đó. Cơ sở khoa học về những quy luật chung nhất của sự
vân động và phát triển xã hội mà học thuyết hình thái kinh tế xã hội chỉ ra thì vẫn giữ
nguyên giá trị”
TàI liệu tham khảo
-Alvin Toffler, “Làn sóng thứ ba”-NXB Thông tin lý luận,Hà Nội(1992)
-Alvin Toffler, “Thăng trầm và quyền lực”-NXB Thông tin lý luận
-Báo Nhân Dân( 21/02/1998)
-Lênin, “Toàn tập,tập 1”-NXB Tiến bộ
-Mác-Ăngghen “Toàn tập (tập 4,tập13,tập19,tập23)”NXB Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội, 1993
-Tạo chí cộng sản(8/2002)
Mục lục
A-Lời Mở Đầu. 1
B-PHần Nội DUNG. 2
I.Học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội. 2
1.Quan niệm của các nhà xã hội học ,triết học trước Mác.
2.Quan niệm của Mác.
II.Tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về hình thái KT-XH 4
III.Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. 7
C-kết luận . 10